Học thuật

Nhu cầu về tiền là gì?

(VNF) - Cùng VietnamFinance tìm hiểu nhu cầu về tiền (demand for money) là gì?

Nhu cầu về tiền là gì?

Nhu cầu về tiền (demand for money) là nhu cầu về vật được tiêu dùng, làm phương tiện trao đổi và cất giữ giá trị.

Nhu cầu về tiền (demand for money) là nhu cầu về vật được tiêu dùng, làm phương tiện trao đổi và cất giữ giá trị. Nhìn chung, người ta muốn có tiền không phải vì bản thân nó, mà vì nó có thể sử dụng để mua hàng hóa, dịch vụ hoặc các tài sản khác. Vì vậy, các nhà kinh tế coi nhu cầu về tiền là nhu cầu phái sinh, tức nhu cầu sinh ra từ nhu cầu khác.

Trong những năm gần đây, bản chất của nhu cầu về tiền đã trở thành vấn đề trung tâm trong kinh tế vĩ mô. Hai trường phái tư tưởng lớn về vấn đề này là quan điểm của Keynes và lý thuyết số lượng tiền tệ.

Keynes lập luận rằng mọi người có 3 động cơ để giữ tiền. Một là mọi người cần tiền để thanh toán các khoản mua hàng hóa và dịch vụ hàng ngày của mình. Keynes gọi đây là động cơ giao dịch. Hai là, mọi người cần tiền để đáp ứng các khoản chi tiêu bất thường, không dự báo trước được, Keynes gọi đây là động cơ dự phòng. Ba là, mọi người giữ tiền để mua các tài sản khác khi giá cả của chúng giảm. Keynes gọi đây là động cơ đầu cơ.

Theo ông, hai loại động đầu làm cho nhu cầu về iền phụ thuộc vào thu nhập, còn động cơ thứ ba làm cho nhu cầu về tiền phụ thuộc vào lãi suất, vì lãi suất có quan hệ tỷ lệ nghịch với giá trái phiếu (tức giá tài sản). Dựa vào phân tích này, phái Keynes đưa ra hàm cầu về tiền như sau:

Dạng tổng quát: MD = L1(Y) + L2(r)

Dạng cụ thể:      MD = kY - hi

Trong đó, L là ký hiệu dùng để chỉ sự ưa thích thanh khoản (khái niệm Keynes dùng để chỉ nhu cầu về tiền) của các cá nhân, Y là thu nhập, r là lãi suất thực tế, i là lãi suất danh nghĩa, còn k và h biểu thị mức độ nhạy cảm của nhu cầu về tiền đối với thu nhập và lãi suất. Dạng cụ thể thường được dùng trong mô hình IS - LM vì mô hình này giả định giá cả không đổi và do vậy lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế. 

Khác với quan điểm nêu trêu của Keynes, lý thuyết tiền tệ cổ điện (ví dụ Phương pháp tiếp cận số dư tiền mặt của trường phải Cambridge) cho rằng nhu cầu về tiền chỉ phụ thuộc vào mục tiêu giao dịch. Mọi người tìm cách giữ lượng tiền tối thiểu cần thiết để thực hiện các giao dịch, vì vậy việc họ giữ thêm số dư tiền mặt nhàn rỗi chỉ là hiện tượng "bất thường". Hàm cầu được thiết lập dựa trên quan điểm này có dạng : MD = kPY

Trong đó, P là mức giá, Y là thu nhập quốc dân thực tế, P là mức giá và k = 1/V, với V là tốc độ lưu thông tiền tệ

Lý thuyết tiền tệ hiện đại về cơ bản chỉ là dạng phức tập của lý thuyết tiền tệ cổ điển. Nhu cầu về tiền để tiến hành các giao dịch được coi là có mối liên hẹ tương quan ổn định với các biến số then chốt. Các nhà tiền tệ hiện đại cho rằng nhu cầu về tiền không còn là hàm của thu nhập và lãi suất nữa, mà có rất nhiều tài sản hiện vật và tài chính khác ảnh hưởng tới nhu cầu về tiền của cá nhân. Các cá nhân sẽ hành động theo hướng làm cho tỷ lệ lợi tức cận biên của tất cả tài sản hiện vật và tài chính mà chúng có thể mua bằng nhau.

Như vậy, tiền được coi là vật thay thế cho tất cả các tài sản khác và nhu cầu về tiền là một hàm của tất cả các tỷ lệ lợi tức mà những tài sản này đem lại. Nếu chú ý rằng lý thuyết của Keynes coi tiền là vật thay thế cho các tài sản tài chính (gọi tắt là trái phiếu), chúng ta sẽ hiểu được tại sao nhu cầu về tiền của lý thuyết tiền tệ lại có dạng tương tự như hàm cầu về tiền của Keynes: MD/ P = f(Y,r)

Trong đó MD/P biểu thị nhu cầu về số dư tiền tệ thực tế, Y biểu thị thu nhập thực tế và r biểu thị lãi suất thực tế. Tuy nhiên, cần chú ý rằng mặc dù cả hai trường phái đều sử dụng dạng hàm cơ bản như nhau trong các công trình nghiên cứu thực nghiệm, nhưng lý thuyết làm cơ sở cho chúng rất khác nhau

Các nhà tiền tệ quả quyết rằng xét về phương diện thống kê, hàm cầu tiền có thể xác định chính xác hơn hàm tiêu dùng và đầu tư, Điều này lý giải tại sao họ ưa thích chính sách tiền tệ hơn chính sách tài chính. Khuyến nghị chính sách của họ thường là cho phép cung tiền tăng với tốc độ ổn định và xấp xỉ bằng tỷ lệ tăng trưởng của sản lượng (cái gọi là quy tắc cung ứng tiền tệ).

Nhưng những công trình nghiên cứu thực nghiệm gần đây đã chỉ ra rằng cả hàm cầu tiền và các thành tố chính của tổng cầu đều mất ổn định, do đó người ta không thể nói nên ưa thích chính sách tài chính hay chính sách tiền tệ hơn. Mặt khác, nếu quy tắc cung ứng tiền tệ được vận dụng trong trường hợp này, cả nhu cầu về tiền và các hoản chi tiêu đều biến động mạnh và không thể dự báo trước được

(Tài liệu tham khảo: Nguyễn Văn Ngọc, Từ điển Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân)

Tin mới lên