Thị trường

Triển vọng kinh tế đầu năm 2017: Ngành sản xuất vẫn đi đầu

(VNF) - Khối Nghiên cứu Kinh tế của ngân hàng HSBC vừa ra báo cáo Triển vọng Kinh tế Việt Nam tháng 2/2017 với tiêu đề: "Ngành sản xuất vẫn đi đầu".

Triển vọng kinh tế đầu năm 2017: Ngành sản xuất vẫn đi đầu

Ngành sản xuất vẫn là yếu tố quan trọng đưa Việt Nam đạt được tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ.

Kinh tế quý IV/2016 tăng nhanh nhờ ngành sản xuất

Theo HSBC, trong nửa đầu năm 2016, nền kinh tế tăng trưởng thấp hơn 6% so với cùng kỳ năm trước. Sau đó, GDP tăng trưởng nhanh. Trong quý IV/2016, tăng trưởng kinh tế đạt 6,8% so với cùng kỳ năm trước như kỳ vọng của HSBC để đưa tốc độ tăng trưởng cả năm đạt 6,2% (trong năm 2015 đạt 6,7%).

HSBC đánh giá, ngành sản xuất vẫn là yếu tố quan trọng đưa Việt Nam đạt được tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ. Việt Nam tiếp tục giành thị phần toàn cầu ở một số mặt hàng trọng điểm, từ quần áo đến mặt hàng điện tử, phản ánh phần nào sự hội nhập của nền kinh tế trong nước vào chuỗi cung ứng khu vực của các công ty đa quốc gia.

Lực lượng lao động có năng lực cạnh tranh cao của Việt Nam cũng là yếu tố thu hút quan trọng ở đây, giúp Việt Nam giải ngân dòng vốn FDI đạt kỷ lục trong năm 2016. Các nhà đầu tư nước ngoài hàng đầu đến từ ba nước Hàn Quốc, Nhật Bản và Singapore.

Giải ngân FDI đạt kỷ lục, ngành sản xuất vẫn chiếm ưu thế

Tính đến 26/12/2016, nguồn vốn FDI trị quá 15,8 tỷ USD đã được giải ngân – nhiều hơn khoảng 9% so với năm 2015. Hàn Quốc, Nhật Bản và Singapore là ba nước đóng góp nhiều nhất vào nguồn vốn này.

Tổng kết có khoảng 19 lĩnh vực được nhận nguồn vốn FDI nhưng ngành sản xuất vẫn là đơn vị nhận được nhiều nhất. Giải ngân nguồn vốn FDI đã đạt kỷ lục trong năm 2016. Và tương tự như những năm trước, ngành sản xuất vẫn chiếm ưu thế

Thoái vốn nhà nước được hỗ trợ trong bối cảnh nợ công ngày càng tăng

HSBC nhận định, Việt Nam chắc chắn vẫn tiếp tục có nhu cầu đầu tư công vào cơ sở hạ tầng nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế đi lên. Và cũng tương tự đối với nhu cầu trong nước cũng cần được củng cố đáng kể bằng sự tăng trưởng tín dụng và tiêu dùng Chính phủ nhanh, mà nếu không được kiểm soát có thể tạo ra những thách thức trong thời kỳ trung hạn.

Mặc dù việc tập trung vào hiệu quả trong chi tiêu Chính phủ và thu thuế đã tăng lên nhưng nợ công vẫn phải chịu nhiều áp lực. Phần lớn các khoản nợ này là dạng cho vay hỗ trợ phát triển dài hạn mà nhiều khả năng ảnh hưởng đến sự chuyển đổi kinh tế từ một nước thu nhập thấp sang một nước thu nhập trung bình. Nhưng một phần của các khoản vay này cần được tái tài trợ ở trên thị trường vốn quốc tế tại thời điểm mà lãi suất của Mỹ dự kiến sẽ tăng.

Chính vì vậy, cải cách xung quanh tài chính công không nên chỉ bao gồm quản lý hiệu quả hơn các nguồn quỹ công và quản lý tốt hơn các khoản nợ, mà còn phải cổ phần hóa nhanh các doanh nghiệp nhà nước. Tỷ lệ thoái vốn trung bình hiện tại ở các doanh nghiệp Nhà nước là 8%. Nói cách khác, Nhà nước vẫn nắm giữ 92% vốn điều lệ sau cổ phần hóa.

Cải cách tư nhân có một sự tác động khi ngày 28/12/2016 một quyết định mới được ban hành, theo đó Chính phủ công bố tỷ lệ tổng sở hữu nhà nước trong các doanh nghiệp được lên danh sách cổ phần hóa. Trước đó, Chính phủ chỉ quy định tỷ lệ sở hữu nhà nước theo ngành mà không quy định cụ thể các doanh nghiệp nhà nước nào dẫn đến việc thoái vốn thấp.

Ngoài ra, quyết định cũng đã liệt kê 103 doanh nghiệp mà Nhà nước sẽ nắm giữ 100% cổ phần và khoảng 137 doanh nghiệp sẽ được cổ phần hóa trong giai đoạn 2016-2020. Trong số những doanh nghiệp được cổ phần hóa, Nhà nước sẽ nắm giữ trên 65% vốn điều lệ trong bốn doanh nghiệp, giữ 50-65% trong 27 doanh nghiệp, và ít hơn 50% vốn trong 106 doanh nghiệp. Các doanh nghiệp Nhà nước đang hoạt động trong các lĩnh vực như quốc phòng, an ninh, điện hạt nhân, và in tiền sẽ không được cổ phần hóa. Quyết định này thay thế cho các quyết định trước và có hiệu lực từ ngày 15/2/2017. Theo quan điểm của chúng tôi, điều này có thể sẽ đẩy nhanh quá trình thoái vốn. 

Tin mới lên