Trong câu chuyện đầu Xuân với Đầu tư Tài chính, Bộ trưởng Công Thương Nguyễn Hồng Diên nói ông giai đoạn khó khăn và thách thức vừa qua đã giúp cho ông và ngành ”tự tin hơn và quan trọng hơn tất cả là tinh thần chủ động, sáng tạo, dám làm, dám chịu trách nhiệm để bứt phá vươn lên”.

8 tháng kể từ khi ông đảm nhiệm cương vị Bộ trưởng Bộ Công Thương là 8 tháng đầy thách thức khi nền kinh tế chịu tổn thương sâu sắc bởi dịch bệnh. Trong thời điểm kết thúc năm cũ, chuẩn bị bước sang năm mới, cảm xúc của ông ngay lúc này là gì?

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Việc được Quốc hội và Chính phủ tín nhiệm phân công trọng trách là Bộ trưởng Bộ Công Thương nhiệm kỳ 2021-2026 vừa là vinh dự cho bản thân, nhưng cũng là trọng trách lớn đối với đất nước, với nhân dân trong việc chèo lái ngành Công Thương thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ tại Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 13 về Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2021-2025 và Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2021-2030.

Năm 2021 là một năm đầy khó khăn của Việt Nam nói chung và đối với ngành Công Thương nói riêng trong bối cảnh dịch Covid-19 vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp. Bộ Công Thương là Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực liên quan trực tiếp đến đời sống an sinh xã hội của các tổ chức và người dân thì trách nhiệm sẽ nặng nề hơn.

Nhìn lại 8 tháng điều hành ở cương vị Bộ trưởng, đâu là thành tựu công việc khiến ông hài lòng nhất? Và ngược lại, đâu là điều khiến ông còn trăn trở?

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Với tinh thần trách nhiệm cao, ngay từ những ngày đầu, tháng đầu của năm 2021, Bộ Công Thương đã cùng với Chính phủ và các Bộ, ngành, địa phương khẩn trương, tích cực triển khai thực hiện các nhiệm vụ được giao đảm bảo chất lượng và tiến độ đã được đề ra; góp phần thực hiện “mục tiêu kép” của Chính phủ vừa phát triển kinh tế vừa chống dịch, đảm bảo mục tiêu tăng trưởng, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất, phát triển thị trường; đảm bảo ổn định cung cầu hàng hóa phục vụ người dân, doanh nghiệp, trong đó, thương mại điện tử đã trở thành một công cụ quan trọng trong hỗ trợ kết nối kinh doanh.

Bộ cũng đã tập trung chỉ đạo tập trung các nhiệm vụ, giải pháp để đảm bảo “mục tiêu kép” do Chính phủ giao thông qua việc phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp (i) Tăng cường dự trữ, đảm bảo cung ứng hàng hóa, dịch vụ thiết yếu tại các địa phương, doanh nghiệp; (ii) Tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân trong vận chuyển, lưu thông hàng hóa; (iii) Duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh trong điều kiện phòng chống dịch Covid-19 (iv) Xúc tiến thương mại, hỗ trợ xuất nhập khẩu, đặc biệt là thông qua các nền tảng trực tuyến.

Năm 2021, ngành Công Thương đã từng bước vượt khó để hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ phân công. Xuất nhập khẩu tiếp tục tạo kỷ lục mới với tổng kim ngạch ước đạt 668,5 tỷ USD và thặng dư thương mại ước đạt 4 tỷ USD, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 332,25 tỷ USD, tăng 19%, hoàn thành vượt mức chỉ tiêu kế hoạch được Quốc hội và Chính phủ giao (kế hoạch tăng 4-5%); sản xuất công nghiệp tiếp tục được mở rộng và duy trì mức tăng trưởng tích cực, không để đứt gãy chuỗi cung ứng, chuỗi sản xuất hàng hóa trước tác động của dịch Covid-19, trong đó: công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục khẳng định vai trò động lực của tăng trưởng, đóng góp ước đạt 1,61 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng của nền kinh tế; ngành điện cung cấp đủ điện an toàn, tin cậy, cho người dân và doanh nghiệp; ngành dầu khí về đích trước kế hoạch, đóng góp cao nhất cho ngân sách với 75,4 nghìn tỷ đồng, vượt 21% kế hoạch, qua đó, đóng góp quan trọng cho việc duy trì thành tích tăng trưởng dương của toàn nền kinh tế, ở mức 2,58%.

Thưa Bộ trưởng, năm 2022, ngành Công Thương sẽ tập trung vào những nhiệm vụ lớn, quan trọng nào? Cá nhân Bộ trưởng có những sự chuẩn bị gì cho một năm 2022 được đánh giá là nhiều triển vọng song cũng rất nặng nề với nhiệm vụ khôi phục nền kinh tế hậu đại dịch?

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Bước sang năm 2022, trong bối cảnh dịch covid vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp; tình hình kinh tế, chính trị thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến khó lường, các yếu tố thuận lợi và khó khăn đan xen. Chính phủ cũng đã thống nhất quan điểm sống chung với dịch, vừa phục hồi kinh tế vừa chống dịch; chúng ta cũng đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm và có những phương án, giải pháp phù hợp để sống chung với dịch như là trạng thái “bình thường mới”.

Đi qua khó khăn và thách thức cũng đã làm cho chúng ta tự tin hơn và quan trọng hơn tất cả là tinh thần chủ động, sáng tạo, dám làm, dám chịu trách nhiệm để bứt phá vươn lên, thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu kế hoạch năm 2022 và nhiệm vụ, giải pháp mà Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII đã đề ra. Bộ Công Thương tập trung thực hiện một số nhiệm vụ sau:

Một là, tiếp tục thực hiện linh hoạt, hiệu quả “mục tiêu kép” vừa phòng, chống đại dịch Covid-19, vừa phục hồi và phát triển ngành Công Thương trong trạng thái bình thường mới.

Hai là, tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển ngành Công Thương trong thời kỳ mới. Trong năm 2022, đặc biệt lưu ý tới hoàn thiện hệ thống thể chế của ngành với việc tập trung kiện toàn khung chính sách, pháp luật về thương mại phù hợp với các FTA đã ký kết với việc triển khai nghiên cứu, xây dựng Luật Thương mại (sửa đổi Luật 2005), Xây dựng và trình Quốc hội ban hành Luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (sửa đổi); hoàn thiện khung chính sách phát triển công nghiệp đồng bộ để thúc đẩy phát triển công nghiệp từ trung ương đến địa phương, đặc biệt là phát triển các ngành công nghiệp nền tảng, khẩn trưởng xây dựng trinh Chính phủ thông qua để trình Quốc hội cho phép xây dựng Luật phát triển công nghiệp, Luật Điện lực sửa đổi, Luật Hóa chất (sửa đổi), Xây dựng và trình Quốc hội Luật Dầu khí (sửa đổi).

Ba là, xác định quy hoạch và tổ chức triển khai thực hiện thực chất, hiệu quả quy hoạch phát triển ngành Công Thương đóng vai trò quan trọng trong phân bổ nguồn lực, thu hút đầu tư, tạo cực tăng trưởng, liên kết vùng, giảm áp lực về đầu tư từ ngân sách nhà nước, xử lý được những hạn chế trong mô hình điều phối mang tính hành chính đối với các vùng kinh tế trọng điểm hiện nay.

Bốn là, tiếp tục tập trung tái cơ cấu ngành Công Thương nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh của ngành; tạo lập các động lực tăng trưởng mới gắn với chuyển biến về chất mô hình tăng trưởng của ngành Công Thương.

Năm là, tập trung thực hiện đồng bộ và triển khai hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do (FTA) đã có hiệu lực, các cam kết trong WTO và Cộng đồng Kinh tế ASEAN, đặc biệt là năng lực thực thi và hiện thực hóa các FTA để mở rộng thị trường xuất khẩu, quản lý có hiệu quả nhập khẩu. Trong đó, Việt Nam cần phải tập trung tận dụng các cơ hội của việc tham gia các FTA quan trọng đã ký kết như EVFTA, CPTPP để góp phần củng cố và bảo đảm an ninh kinh tế, nâng cao vị thế đối với các quốc gia thành viên trước các xu hướng bảo hộ đang ngày càng diễn biến phức tạp; đẩy mạnh việc đa dạng hóa thị trường và mặt hàng xuất khẩu, cơ cấu lại các ngành hàng xuất khẩu hiệu quả hơn…

Sáu là, đẩy mạnh phát triển thương mại nội địa để khai thác có hiệu quả khu vực thị trường gần 100 triệu dân với sự gia tăng cao của tầng lớp trung lưu. Phát triển các chuỗi cung ứng hàng hóa trong nước để kết nối giữa sản xuất với thị trường, thực hiện nhất quán quản lý chất lượng hàng hoá lưu thông trong nước bằng các quy định, tiêu chuẩn phù hợp với thông lệ quốc tế; ưu tiên phát triển chuỗi cung ứng các mặt hàng nông sản, thực phẩm.

Bảy là, tập trung cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; kiện toàn bộ máy quản lý ngành Công Thương gắn với đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; đẩy mạnh phát triển khoa học – công nghệ gắn với đổi mới sáng tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để nâng cao năng suất, chất lượng của ngành Công Thương.

Một trong những nội dung được quan tâm thường niên của ngành Công Thương là xuất nhập khẩu. Tính đến tháng 11, Việt Nam xuất siêu hàng hóa 225 triệu USD, một con số khiêm tốn so với thành tích hơn 19 tỷ USD của năm trước, nhưng đó cũng là một sự nỗ lực không nhỏ của ngành Công Thương. Bộ trưởng có thể chia sẻ về những câu chuyện đã làm nên thành tích năm thứ 6 xuất siêu liên tiếp này?

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Mặc dù đối mặt với nhiều khó khăn, đặc biệt là năm thứ hai dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, tăng trưởng xuất khẩu năm 2021 tiếp tục ghi nhận kết quả tích cực. Theo số ước liên Bộ, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá năm 2021 ước đạt 335,2 tỷ USD, tăng 18,6% so với năm 2020. Đáng chú ý, sản xuất, xuất khẩu phục hồi mạnh mẽ trong những tháng cuối năm giúp cán cân thương mại luỹ kế đảo chiều từ nhập siêu thành xuất siêu từ tháng 10, cán cân thương mại luỹ kế 11 tháng 2021 thặng dư 1,5 tỷ USD và cán cân thương mại cả 2021 được dự báo thặng dư khoảng 3 tỷ USD.

Kết quả tăng trưởng xuất khẩu tích cực và xuất siêu năm 2021 là do nước ta đã đạt những hiệu quả trong công tác phòng, chống dịch bệnh, cùng với đó là sự nỗ lực thực thi nhiều giải pháp tháo gỡ khó khăn của Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương và sự chủ động, linh hoạt trong tổ chức sản xuất trong trạng thái “bình thường mới” của doanh nghiệp xuất khẩu để kịp thời nắm bắt cơ hội phục hồi từ các thị trường nhập khẩu, nhanh chóng đẩy mạnh xuất khẩu.

Tuy nhiên, xuất khẩu tăng mạnh nhưng nhập khẩu vẫn còn lớn (tăng 26,5%) và phụ thuộc vào khu vực FDI. Kim ngạch xuất khẩu của khối doanh nghiệp FDI, kể cả dầu thô, ước đạt 246,7 tăng 20,7%, chiếm 74% tổng kim ngạch xuất khẩu. Mức độ đa dạng hoá thị trường và sản phẩm ít thay đổi; khả năng đáp ứng các yêu cầu về tiêu chuẩn, chất lượng của các thị trường vẫn còn hạn chế, đặc biệt là các mặt hàng nông, thủy sản để có thể tận dụng tốt các ưu đãi thuế quan từ các FTA đã ký kết; công tác quản lý xuất nhập khẩu, đặc biệt là xuất nhập khẩu qua biên giới còn nhiều bất cập, gây ách tắc tại cửa khẩu kéo dài, ảnh hưởng đến hoạt động thương mại biên mậu và thiệt hại lớn về kinh tế.

Mới đây, Bộ trưởng đã đưa ra quan điểm đột phá trong sửa đổi Luật Điện lực là đề xuất để mọi thành phần kinh tế có thể tham gia đầu tư truyền tải điện. Xin hỏi Bộ trưởng, cơ sở pháp lý nào để ông đưa ra quan điểm khác biệt với những quy định trước đây (Nhà nước độc quyền về truyền tải điện) và đánh giá của ông khi đề xuất này được hiện thực hóa trong việc bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia?

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Một trong các nhiệm vụ và giải pháp để thực hiện định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 theo Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị là: “Nghiên cứu, xây dựng cơ chế khuyến khích thu hút nguồn vốn ngoài nhà nước đầu tư xây dựng vào hệ thống truyền tải điện quốc gia; vận hành hệ thống điện quốc gia độc lập dưới dự kiểm soát của nhà nước” và “cơ chế, chính sách đầu tư xây dựng hệ thống truyền tải điện, tách bạch với độc quyền nhà nước về truyền tải điện. Thực hiện xã hội hóa tối đa trong đầu tư và khai thác, sử dụng cơ sở vật chất, dịch vụ ngành năng lượng, bao gồm cả hệ thống truyền tải điện quốc gia trên cơ sở bảo đảm quốc phòng, an ninh”.

Tuy nhiên, chính sách Nhà nước độc quyền trong hoạt động truyền tải điện được quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật Điện lực hiện tại chưa phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng tại Nghị quyết số 55-NQ/TW, chưa đáp ứng nhu cầu thực tiễn, cấp bách trong thời gian qua. Do đó, khi đưa ra đề xuất này, Bộ Công Thương đã thực hiện luật hóa chủ trương, chính sách của Đảng tại Nghị quyết số 55-NQ/TW về xã hội hóa truyền tải điện.
Với “lo lắng” về an ninh năng lượng, chúng tôi đã tính toán đến yếu tố này.

Với “lo lắng” về an ninh năng lượng, chúng tôi đã tính toán đến yếu tố này.

Luật Điện lực hiện hành đã có các quy định việc kiểm soát của Nhà nước đối với hoạt động truyền tải điện: Nhà đầu tư khi tham gia với vai trò là đơn vị truyền tải điện sẽ phải tuân thủ các quy định tại Luật Điện lực và các văn bản dưới luật, như: tuân thủ phương thức vận hành, lệnh chỉ huy, điều khiển của đơn vị điều độ hệ thống điện quốc gia; đảm bảo các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, bảo đảm lưới điện và các trang thiết bị truyền tải điện vận hành an toàn, ổn định, tin cậy; được cấp phép hoạt động truyền tải theo quy định; được quyền thu hồi chi phí đầu tư xây dựng, vận hành và bảo dưỡng tài sản đã đầu tư thông qua giá truyền tải điện.

Ngoài ra, nhà đầu tư khi thực hiện đầu tư xây dựng lưới điện truyền tải còn phải tuân thủ các quy định pháp luật đầu tư, xây dựng, chịu sự quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước theo thẩm quyền về đầu tư, xây dựng. Đồng thời, nhà nước yêu cầu các nhà đầu tư lưới điện truyền tải phải cho phép các chủ thể khác được quyền đấu nối vào lưới điện truyền tải do chính nhà đầu tư được giao thực hiện. Do đó, khi đề xuất này được luật hóa sẽ đảm bảo an toàn, an ninh năng lượng quốc gia.