Công cụ chính sách (policy instrument) là biến số kinh tế mà chính phủ có thể thay đổi để tác động tới các biến số kinh tế vĩ mô.
Chúng ta có thể phân biệt 5 nhóm công cụ chính sách kinh tế chủ yếu là: chính sách tài chính, chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá hối đoái, chính sách thương mại, chính sách giá cả và thu nhập.
Ví dụ nhóm công cụ chính sách tài chính bao gồm các biện pháp thay đổi thuế và chi tiêu. Cần chú ý rằng chính phủ cũng có thể tìm cách làm thay đổi các biến số kinh tế vĩ mô thông qua các cuộc cải cách xã hội và thể chế. Giả sử như việc cải cách thể chế thương lượng tiền lương có thể làm cho tiền lương không tăng quá nhanh, góp phần chống lạm phát.
(Tài liệu tham khảo: Nguyễn Văn Ngọc, Từ điển Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân)
Chính phủ có những công cụ nhất định có thể tác động đến kinh tế vĩ mô. Công cụ chính sách là một biến số kinh tế dưới sự kiểm soát của chính phủ có thể tác động đến một hay nhiều mục tiêu kinh tế vĩ mô. Tức là, bằng cách thay đổi chính sách tiền tệ, tài khoá,và các chính sách khác, chính phủ có thể lái nền kinh tế đến một tình trạng tốt hơn về sản lượng, ổn định giá cả và việc làm.
Quyết định điều chỉnh thuế và chi tiêu chính phủ nhằm đạt mức sản lượng, việc làm và giá cả mong muốn.
Ngân hàng trung ương thực thi chính sách tiền tệ làm thay đổi mức cung tiền và lãi suất, thông qua các công cụ như: lãi suất chiết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở. Nhằm hướng mức sản lượng quốc gia, việc làm và giá cả đạt mức mong muốn.
Các chính sách nhằm kiểm soát giá và tiền lương trong nền kinh tế.
Gồm các chính sách nhằm cân bằng cán cân thương mại để góp phần cân bằng cán cân thanh toán. Chính sách ngoại thương sử dụng các công cụ mà chính phủ có thể sử dụng để tác động đến quan hệ thương mại quốc tế như thuế quan, hạn ngạch, trợ cấp xuất khẩu.