Thị trường

Công nghiệp ô tô Việt Nam: Đi sau phải lau nước mắt

(VNF) – Trong báo cáo mới nhất về công tác thực hiện quy hoạch phát triển ngành ô tô và sản phẩm cơ khí trọng điểm, Bộ Công Thương thừa nhận, mục tiêu phát triển ngành ô tô Việt Nam đã chính thức thất bại.

Công nghiệp ô tô Việt Nam: Đi sau phải lau nước mắt

Mục tiêu công nghiệp ô tô Việt Nam đã thất bại khi không đạt được chỉ tiêu nội địa hóa

Giá bán ô tô Việt Nam cao gấp đôi Thái Lan, Indonesia

Theo Bộ Công Thương, trong 2 năm trở lại đây, ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đã phát triển khá nhanh. Năm 2015, lần đầu tiên sản lượng sản xuất, lắp ráp xe ô tô trong nước đạt trên 200 nghìn xe/năm, tăng 51% so với năm 2014. Năm 2016, sản lượng tiếp tục tăng mạnh, đạt trên 283,3 nghìn xe.

Một số loại sản phẩm đã xuất khẩu sang thị trường Lào, Campuchia, Myanmar, Trung Mỹ… Ngành ô tô đã đóng góp hàng tỷ USD vào ngân sách Nhà nước, góp phần giảm nhập siêu đồng thời tạo ra việc làm trực tiếp cho hơn 120 nghìn lao động.

Tính đến năm 2016, ngành sản xuất ô tô trong nước có khoảng 173 doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp, trong đó 56 doanh nghiệp sản xuất xe từ linh kiện rời, 117 doanh nghiệp sản xuất từ xe cơ sở. Đa phần các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Một số doanh nghiệp nội địa đã tham gia sâu vào chuỗi sản xuất ô tô toàn cầu.

Công nghiệp ô tô Việt Nam: Đi sau phải lau nước mắt ảnh 1

Giá bán ô tô Việt Nam đắt gấp đôi Thái Lan, đắt gấp nhiều lần Hoa Kỳ, Nhật Bản do gánh nhiều thuế phí

Mặc dù vậy, Bộ Công Thương thừa nhận ngành sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước vẫn chưa đạt được tiêu chí của ngành sản xuất ô tô thực sự (phần lớn mới ở mức độ lắp ráp đơn giản), dây chuyền sản xuất chủ yếu chỉ gồm 4 công đoạn chính là hàn, sơn, lắp ráp, kiểm tra.

Giá bán xe vẫn ở mức cao so với các nước trong khu vực. Mức giá xe tại Việt Nam cao hơn gần 2 lần so với các nước trong khu vực (Thái Lan và Indonesia), và con số  này còn lớn hơn nếu so với các nước có ngành công nghiệp ô tô đã phát triển ổn định như Hoa Kỳ và Nhật Bản.

Theo đánh giá, nguyên nhân lớn nhất khiến giá xe ở mức cao là do thuế và phí của nước ta cao, đồng thời sản lượng tích lũy trong nước thấp (các doanh nghiệp đang sản xuất dưới rất xa so với công suất thiết kế). Chất lượng xe sản xuất, lắp ráp trong nước mặc dù đã được cải thiện nhưng vẫn không bằng xe nhập khẩu. Chưa tạo được sự hợp tác - liên kết và chuyên môn hoá giữa các doanh nghiệp trong sản xuất - lắp ráp ô tô và sản xuất phụ tùng linh kiện. Chưa hình thành được hệ thống các nhà cung cấp nguyên vật liệu và sản xuất linh kiện quy mô lớn.

Người đến sau…

Về tỷ lệ nội địa hoá đối với xe cá nhân đến 9 chỗ ngồi, mục tiêu đề ra là 40% vào năm 2005, 60% vào năm 2010 tuy nhiên đến nay mới đạt bình quân khoảng 7 - 10%.

Không chỉ thấp về tỷ lệ, các sản phẩm đã được nội địa hóa cũng chỉ mang hàm lượng công nghệ rất thấp như: săm, lốp ô tô, ghế ngồi, gương, kính, bộ dây điện, ắc-quy, sản phẩm nhựa...

Có tới 80 - 90% nguyên liệu chính cho sản xuất linh kiện như thép hợp kim, hợp kim nhôm, hạt nhựa, cao su kỹ thuật cao hiện phải nhập khẩu. Vật liệu làm khuôn mẫu chủ yếu cũng phải nhập khẩu. Hàng năm, các doanh nghiệp phải nhập khẩu khoảng 2 - 3,5 tỷ USD các linh kiện, phụ  tùng phục vụ cho sản xuất lắp ráp và sửa chữa xe.

"Nguyên nhân là do đối với lĩnh vực sản xuất, lắp ráp xe chở người đến 9 chỗ ngồi (xe con), Việt Nam là nước đi sau trong khu vực (so với các nước như Thái Lan, Indonesia, Malaysia).

"Chuỗi sản xuất ngành ô tô do các tập đoàn đa quốc gia chi phối. Họ quyết định hoàn toàn việc nghiên cứu - phát triển, địa điểm sản xuất, phương thức bán hàng... Trong khi đó, trước khi đầu tư dự án lắp ráp tại Việt Nam, các tập đoàn ô tô lớn của Nhật Bản, Hoa Kỳ... đều đã đầu tư các dự án sản xuất ô tô con có quy mô rất lớn trong khu vực ASEAN. Công suất các dự án sản xuất ô tô con thường được tính toán cho thị trường khu vực, chứ không tính riêng cho quốc gia đặt nhà máy sản xuất, vì vậy các tập đoàn không có các dự án đầu tư lớn ở Việt Nam do quy mô thị trường quá nhỏ, bằng 1/10 Thái Lan, 1/5 Indonesia...", Bộ Công Thương lý giải.

Công nghiệp ô tô Việt Nam: Đi sau phải lau nước mắt ảnh 2

Đi sau các nước trong khu vực là nguyên nhân của tỷ lệ nội địa hóa thấp?

Đối với chủng loại xe ô tô tải và xe chở người trên 10 chỗ ngồi (xe khách), tỷ lệ nội địa hoá xe tải nhỏ và xe buýt trên 25 chỗ có khá hơn, đạt khoảng 45 - 50% nhưng vẫn chưa bằng mục tiêu đề ra (60%).

Nguyên nhân là do các chủng loại xe này chủ yếu để phục vụ sản xuất - kinh doanh, ít có sự thay đổi về mẫu mã, có thời gian sử dụng dài nên, tỷ lệ nhập khẩu không cao do xe có kích thước lớn, khối lượng nặng... nên các dòng xe tải và xe khách sản xuất trong nước vẫn có lợi thế và tiềm năng phát triển.

Về công nghiệp hỗ trợ ngành ô tô, do thị trường nội địa nhỏ, chỉ ở mức độ 500 nghìn xe/năm, trong khi số lượng doanh nghiệp sản xuất - lắp ráp lớn (56 doanh nghiệp) nên không không hấp dẫn các doanh nghiệp đầu tư sản xuất các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ngành ô tô vì hiệu quả kinh tế thấp. Hơn nữa, các nguyên vật liệu cơ bản như thép chế tạo, cao su, nhựa và chất dẻo phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu nên ảnh hưởng đến việc phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành ô tô.

"Hiện nay, tỷ lệ nội địa hóa của các nước trong khu vực trung bình đã đạt được 65 - 70%, Thái Lan đạt tới 80%. Như vậy, nếu các nhà sản xuất ô tô trong nước không sớm có giải pháp hữu hiệu nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, chắc chắn sẽ khó lòng cạnh tranh với thị trường khu vực khi AFTA có hiệu lực", Bộ Công Thương nhận định.

Vẫn quyết làm ô tô

Dù công nghiệp ô tô đang đứng trước nhiều thách thức, Bộ Công Thương vẫn kiên trì mục tiêu phát triển ngành này.

Cụ thể Bộ đã thành lập Tổ công tác liên ngành đánh giá toàn diện thị trường ô tô Việt Nam trong mối tương quan với thị trường khu vực và thế giới.

Bên cạnh đó, Bộ cũng tập trung xây dựng Nghị định về sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu ô tô theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Đồng thời, nghiên cứu, áp dụng biện pháp chống gian lận thương mại để hạn chế việc xe ô tô nguyên chiếc nhập khẩu do khai báo giá hải quan thấp gây tác động bất lợi đến sản xuất trong nước.

Công nghiệp ô tô Việt Nam: Đi sau phải lau nước mắt ảnh 3

Bộ Công Thương đang nghiên cứu áp dụng biện pháp chống gian lận thương mại để hạn chế nhập khẩu xe

Được biết, trong thời gian tới, một số doanh nghiệp tư nhân trong nước như Công ty cổ phần Ô tô Trường Hải (tại Chu Lai Quảng Nam), Tập đoàn Thành Công (tại Ninh Bình)... sẽ triển khai một số dự án có quy mô lớn hướng tới mục tiêu đáp ứng nhu cầu nội địa và xuất khẩu trong các nước ASEAN và khu vực lân cận.

Các dự án có quy mô lớn, khoảng 100.000 xe/năm đối với xe dưới 9 chỗ và trên 30.000 xe/năm đối với xe thương mại. Các dòng xe này chưa có cơ sở sản xuất lớn ở khu vực ASEAN là điều kiện thuận lợi để phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ nội địa, hướng tới mục tiêu nội địa hóa 40% đến năm 2020 - 2021 để hưởng ưu đãi thuế nhập khẩu 0% trong khu vực ASEAN, đồng thời tác động tích cực đến cán cân thương mại ô tô Việt Nam.

Bộ Công Thương sẽ phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tham mưu, đề xuất các cơ chế hỗ trợ nhằm thúc đẩy các dự án này sớm đi vào hoạt động, đồng thời với việc hình thành phát triển, hệ thống nhà cung ứng linh kiện, phụ tùng nội địa.

Tin mới lên