Tiêu điểm

Đại sứ Hoa Kỳ Daniel Kritenbrink: 'Chúng tôi muốn một Việt Nam mạnh mẽ, thịnh vượng'

(VNF) - Nhân kỷ niệm 25 năm ngày bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, Tạp chí Nhà đầu tư đã có cuộc phỏng vấn ông Daniel Kritenbrink, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam về quan hệ hai nước và triển vọng hợp tác trong tương lai.

Đại sứ Hoa Kỳ Daniel Kritenbrink: 'Chúng tôi muốn một Việt Nam mạnh mẽ, thịnh vượng'

Đại sứ Hoa Kỳ Daniel Kritenbrink.

- Đại sứ đánh giá thế nào về những thành tựu trong quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam trong hành trình 25 năm qua?

Ông Daniel Kritenbrink: Khi Tổng thống Bill Clinton tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao của Hoa Kỳ với Việt Nam vào năm 1995, hai nước chúng ta gần như không có quan hệ kinh tế, còn kết nối giữa nhân dân hai nước thì rất hạn chế. Ngày nay, Hoa Kỳ và Việt Nam có mối quan hệ đối tác và hữu nghị, với cam kết chung về hòa bình và thịnh vượng trong các lĩnh vực đa dạng như thương mại, phát triển, giáo dục, chăm sóc sức khỏe, năng lượng và an ninh.

Chúng ta đã trở thành đối tác đáng tin cậy và tận hưởng một tình bạn dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau. Khi tôi nhìn lại tất cả những gì chúng ta đã đạt được cùng nhau, tiến trình của mối quan hệ song phương Hoa Kỳ-Việt Nam trong 25 năm qua là thật sự ấn tượng.

Trước khi đánh giá những thành tựu của chúng ta trong suốt 25 năm qua, tôi muốn nhấn mạnh cách thức mà những nhà ngoại giao tiền nhiệm của chúng tôi đã xây dựng niềm tin trước khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao - một thành tựu ấn tượng. Những nhà ngoại giao tiền nhiệm của chúng tôi đã gác sang một bên sự khác biệt, thừa nhận lịch sử của chúng ta và cam kết tiến về phía trước như những người bạn thay vì kẻ thù.

Ý chí này đã đặt nền tảng cho tương lai. Các nhóm cựu chiến binh và gia đình của họ - ở cả hai phía - đã dẫn đường và bắt đầu xây dựng những cây cầu mà sau này kết nối hai nước chúng ta với tư cách là đối tác và bè bạn.

Những bước đi này đã dẫn đến việc mở cửa hai đại sứ quán của chúng ta tại Washington và Hà Nội vào năm 1995. Năm 1997, Thượng viện Hoa Kỳ đã phê chuẩn Douglas “Pete” Peterson là Đại sứ Hoa Kỳ đầu tiên tại nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Đại sứ Peterson, từng là một phi công của Không quân Hoa Kỳ trong chiến tranh ở Việt Nam và đã có hơn sáu năm làm tù binh chiến tranh, đã dành nhiệm kỳ đại sứ của mình để hòa giải và xây dựng mối quan hệ lâu dài giữa hai nước chúng ta.

Ông đã không đơn độc trong nỗ lực xây dựng mối quan hệ bền chặt hơn giữa Hoa Kỳ và Việt Nam: những nhân vật quan trọng trong hai chính phủ của chúng ta, bao gồm Thượng nghị sĩ John McCain, Thượng nghị sĩ Patrick Leahy, cựu Thượng nghị sĩ và Ngoại trưởng John Kerry, Đại sứ Lê Văn Bàng, Nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, Nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm, và nhiều người khác, đã thúc đẩy một tương lai chung của niềm tin, hòa bình và thịnh vượng, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và hệ thống chính trị tương ứng của nhau.

Trong 25 năm qua, sự phát triển của các mối quan hệ kinh tế là rất đáng chú ý. Chúng ta đã đi từ gần như không có thương mại và đầu tư vào năm 1995 đến hơn 77 tỷ USD thương mại hàng năm vào năm 2019. Các công ty lớn của Hoa Kỳ như Nike, Apple, Intel, Hanes và nhiều công ty khác đã đầu tư hàng tỷ USD vào Việt Nam. Điều này đã giúp ích cho nền kinh tế Việt Nam và cũng giúp cho các công ty của chúng tôi cạnh tranh hơn trên toàn cầu.

- Trong bối cảnh hiện tại của các mối quan hệ quốc tế và khu vực, Đại sứ có thể chia sẻ quan điểm của ngài về triển vọng của mối quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam?

Tôi thấy sự hợp tác này là một mối quan hệ sẽ phát triển sâu hơn và rộng hơn về mọi mặt. Nguyên tắc cơ bản là mạnh mẽ: ở Hoa Kỳ có sự đồng thuận giữa hai Đảng rằng chúng tôi nên phát triển hơn nữa mối quan hệ với Việt Nam.

Và đại đa số người dân Việt Nam có ấn tượng tốt đẹp về Hoa Kỳ. Quan hệ đối tác toàn diện mạnh mẽ mà chúng ta chia sẻ ngày hôm nay là kết quả của vô số việc làm và hàng thập kỷ cống hiến chân thành của các cá nhân từ cả hai nước chúng ta, và tôi nhận thấy điều này còn phát triển mạnh mẽ hơn nữa.

Mỗi ngày, các nhà lãnh đạo doanh nghiệp Hoa Kỳ và Việt Nam phát triển quan hệ thương mại mạnh mẽ cho phép quan hệ đối tác thương mại của chúng ta phát triển thịnh vượng. Các công ty lớn của Hoa Kỳ đã đầu tư hàng tỷ USD vào cả lĩnh vực sản xuất của Việt Nam và cơ sở hạ tầng, và chúng tôi hy vọng đầu tư của Hoa Kỳ vào năng lượng và cơ sở hạ tầng khác sẽ tiếp tục và thậm chí tăng tốc theo Tầm nhìn kinh tế Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của chúng tôi.

Chúng tôi đang thảo luận về cách Hoa Kỳ có thể phối hợp với Việt Nam để thúc đẩy tài chính của khu vực tư nhân để giúp Việt Nam phát triển kinh tế và đáp ứng nhu cầu cơ sở hạ tầng quan trọng.

Cùng nhau, các doanh nhân từ hai nước chúng ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ. Tôi tin rằng sự hợp tác của chúng ta để đảm bảo giao thương hàng hóa và đầu tư tự do và công bằng sẽ tiếp tục đóng góp cho sự thịnh vượng chung của hai nước chúng ta. Chúng tôi không chỉ thực hiện các cam kết về tăng trưởng kinh tế, mà còn về phát triển bền vững.

Để thực hiện điều này, chúng tôi hợp tác với Việt Nam để bảo vệ và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên - cùng nhau hợp tác, chúng ta đang đầu tư vào quản lý lâm nghiệp bền vững; chống lại nạn đánh bắt cá bất hợp pháp và không được kiểm soát và buôn bán động vật hoang dã bất hợp pháp; và cải thiện chất lượng không khí và nước.

Quan hệ đối tác của chúng ta mở rộng sang cả lĩnh vực y tế và khoa học, và chúng tôi hy vọng điều này sẽ tăng lên. Năm nay, Hoa Kỳ và Việt Nam đã xây dựng sự hợp tác lâu dài trong lĩnh vực y tế để tăng cường năng lực của Việt Nam ứng phó với đại dịch COVID-19 và nhanh chóng huy động các đối tác và nguồn lực phi chính phủ để hỗ trợ ứng phó khẩn cấp với đại dịch.

Chúng tôi cũng đánh giá cao sự hợp tác của Việt Nam trong việc tạo điều kiện gửi vật tư y tế đến Hoa Kỳ. Vào tháng Tư, Tổng thống Trump đã tweet về một loạt các chuyến hàng vận chuyển quần áo bảo hộ DuPont Tyvek, nói rằng "điều này được thực hiện nhờ sự hợp tác của hai công ty lớn của Hoa Kỳ - DuPont và FedEx - và những người bạn của chúng tôi tại Việt Nam. Cảm ơn bạn!".

Nhiều công ty khác cũng đã đẩy mạnh sản xuất mặt nạ và áo choàng bảo vệ các nhân viên y tế trên tuyến đầu chống dịch của Hoa Kỳ, và tôi mong đợi sự hợp tác chặt chẽ hơn nữa về sức khỏe, y tế và khoa học trong tương lai.

Mỗi năm sự hợp tác về an ninh của chúng ta càng trở nên mạnh mẽ hơn. Như Ngoại trưởng Mike Pompeo đã nói, "Trong quá khứ, chúng ta là đối thủ trên chiến trường. Nhưng ngày hôm nay, mối quan hệ an ninh của chúng ta tập trung vào sự hợp tác". Sự hợp tác đó diễn ra ở mọi cấp độ, từ các chuyến thăm cấp cao của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đến các tương tác giữa quân nhân của quân đội hai nước chúng ta.

Sự hợp tác của chúng ta cũng bao gồm việc hỗ trợ về thiết bị quân sự: trong hai năm qua, Lực lượng Bảo vệ Bờ biển Hoa Kỳ đã chuyển giao 24 tàu tuần tra và một tàu nặng 3,000 tấn, cao 115 mét cho Cảnh sát biển Việt Nam. Trong chuyến thăm Hà Nội vào tháng 11 năm 2019, Bộ trưởng Quốc phòng Mark Esper đã đồng ý mở rộng chương trình này bằng cách chuyển chiếc tàu thứ hai vào cuối năm nay. Và chúng tôi rất vui mừng thông báo rằng mùa hè này, Việt Nam sẽ cử học viên đầu tiên đến học tại Học viện Không quân Hoa Kỳ.

- Đại sứ có khuyến nghị gì đối với chính phủ Việt Nam để tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi thu hút vốn FDI lớn từ Hoa Kỳ?

Kể từ khi Việt Nam bắt đầu cải cách kinh tế "Đổi mới" vào năm 1986 để chuyển sang nền kinh tế dựa trên thị trường, chính phủ đã hoan nghênh đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và công nhận FDI là một thành phần quan trọng đóng góp vào tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong hai thập kỷ qua.

Và kết quả thực tế đã nói lên điều đó: Việt Nam đã thu hút được 143 tỷ USD vốn FDI trong 10 năm qua và đã đạt được tốc độ tăng trưởng GDP trung bình khoảng 6% mỗi năm trong thập kỷ qua. Từ khi tôi bắt đầu nhiệm kỳ đến nay, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ trong việc thúc đẩy môi trường đầu tư hấp dẫn hơn đối với FDI.

Tuy nhiên, trong các cuộc trò chuyện với cộng đồng doanh nghiệp Hoa Kỳ, tôi thường nghe thấy hai mối quan tâm giống nhau của họ: 1) việc thực thi chính sách thuế là không thể đoán trước và 2) việc ra quyết định thường chậm và quá quan liêu. Nếu Việt Nam có thể cải thiện trong hai lĩnh vực này, thì đất nước sẽ tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi hơn.

Về thuế, đại diện từ các công ty Hoa Kỳ đã nói với tôi rằng các quy định về thuế khó hiểu, nghĩa vụ pháp lý hồi tố liên quan đến thuế suất và chính sách thuế, và sự đối xử ưu đãi với các doanh nghiệp nhà nước đã làm cho việc kinh doanh tại Việt Nam trở nên khó khăn hơn. Các đánh giá hồi tố đã khiến các nhà xuất khẩu và nhà đầu tư Hoa Kỳ khó ước tính trách nhiệm thuế cuối cùng của họ. Khung pháp lý công bằng, minh bạch, ổn định và hiệu quả sẽ cải thiện môi trường kinh doanh.

Về việc ra quyết định, các công ty Hoa Kỳ nói rằng việc nhận được sự chấp thuận của chính phủ ở Việt Nam mất nhiều thời gian hơn ở một số quốc gia khác trong khu vực. Các công ty này rất muốn hoạt động tại Việt Nam nhưng thường không thể ước tính được trở ngại trong hoạt động kinh doanh do sự quan liêu gây nên. Thay vì đối phó với sự không chắc chắn đó, đôi khi các nhà đầu tư này chọn đầu tư vào nơi khác.

Chúng tôi cũng hy vọng Việt Nam sẽ tiếp tục giải quyết các mối quan tâm khác về kinh doanh và đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam, bao gồm các vấn đề liên quan đến dịch vụ kỹ thuật số.

Các doanh nghiệp Hoa Kỳ sẽ quyết định đầu tư vào Việt Nam dựa trên lý do thương mại. Tôi tin tưởng rằng sự đối thoại liên tục của Việt Nam với cộng đồng doanh nghiệp Hoa Kỳ sẽ tiếp tục phát triển môi trường kinh doanh hấp dẫn. Chúng tôi mong muốn tiếp tục hợp tác giữa chính phủ và khu vực tư nhân Hoa Kỳ-Việt Nam để đẩy mạnh nền kinh tế của hai nước chúng ta.

Mục tiêu chung của chúng tôi là để Hoa Kỳ trở thành đối tác quan trọng trong việc hỗ trợ sự phát triển của một Việt Nam mạnh mẽ, thịnh vượng và độc lập. Khi chúng ta kỷ niệm 25 năm bình thường hóa quan hệ ngoại giao, tôi tự hào về những gì chúng ta đã hợp tác.

Chúng ta đã cho thế giới thấy cách mà hai đối tác đã từng là đối thủ trước đây có thể hợp tác với nhau để hình thành mối quan hệ đối tác toàn diện dựa trên sự tôn trọng, tin tưởng, quan hệ kinh tế sâu sắc và vì lợi ích chung. Điều này đem đến cho tôi niềm tin và hy vọng lớn cho sự hợp tác của chúng ta trong 25 năm tiếp theo.

Tin mới lên