M&A

Doanh nghiệp sau cổ phần hóa: Bình mới, rượu cũng phải mới

"Cổ phần hóa phải mang đến sự thay đổi toàn bộ về lượng và chất, thực sự là 'bình mới, rượu mới' thì mới đem lại hiệu quả", ông Đặng Quyết Tiến- Cục trưởng Cục Tài chính doanh nghiệp, Bộ Tài chính đã có cuộc trao đổi với báo chí xoay quanh câu chuyện hậu cổ phần hóa của các doanh nghiệp nhà nước.

Doanh nghiệp sau cổ phần hóa: Bình mới, rượu cũng phải mới

Ông Đặng Quyết Tiến

- Ông có đánh giá gì về hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) sau khi được cổ phần hóa?

Phần lớn các DN sau khi cổ phần hóa (CPH) một thời gian đều có kết quả hoạt động tốt hơn trên nhiều mặt về doanh thu, lợi nhuận, quyền lợi cho người lao động… Quan trọng nhất là DN đã đổi mới được quản trị, tăng tính tự chủ, linh hoạt trong hoạt động, đặc biệt là vấn đề công khai minh bạch thông tin.

Ngay các DNNN CPH cuối năm 2017 đầu năm 2018 vừa qua, như Tổng Công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam (PVPower), lúc CPH khả năng huy động vốn của DN có hạn nhưng sau khi CPH (chuyển sang công ty cổ phần) DN đã có định hướng để huy động thêm vốn theo nhiều kênh nhờ quản trị có sự đổi mới, tình hình tài chính, kết quả kinh doanh khả quan. Việc tiếp cận vay vốn trong và ngoài nước với chi phí hợp lý là khả quan, hiệu quả cao như phát hành trái phiếu, tận dụng các nguồn lực nhàn rỗi của các quỹ xã hội... Đó là một trong những động lực làm cho DN có quy mô lớn hơn. Vừa qua PVPower đã được Chính phủ giao triển khai tiếp hai dự án nhiệt điện: Nhơn Trạch 3, Nhơn Trạch 4. Khả năng PVPower sẽ hoàn thành tiến độ sớm đưa dòng điện hòa vào lưới điện quốc gia vào năm 2021-2022.

Đó là những điều đổi mới căn bản nếu ở DNNN thì cơ chế trình, xin ý kiến, tính trách nhiệm không cao. Chuyển sang công ty cổ phần khi đã áp dụng quản trị sẽ rõ ai chịu trách nhiệm, ai làm được và làm được như thế nào, đồng tiền thu được sẽ được các cổ đông giám sát hiệu quả.
Nhìn lại quá trình CPH vừa qua có rất nhiều mô hình tốt như Petrolimex, Vinamilk, PV gas, Vietnamairline, một số DN dược phẩm đã CPH đều có hoạt động tốt hơn. Qua đó có thể nhận thấy hiệu quả từ chủ trương CPH là không thể phủ nhận. CPH sẽ đem lại xu hướng mới, động lực mới cho DN phát triển.

Bên cạnh đó nếu CPH không thay đổi về chất, tức là vẫn duy trì bộ máy cũ, cách quản lý cũ, không đổi mới về quản trị, không công khai minh bạch. Ở đây lấy thước đo thị trường thông qua việc DN có đăng kí giao dịch niêm yết trên thị trường chứng khoán để áp dụng kỷ luật thị trường thì các DN niêm yết hoạt động hiệu quả, ngược lại thì DN có kết quả không khá hơn DNNN mà có DN còn đi xuống.

Vấn đề CPH phải là làm quyết liệt, triệt để thay đổi toàn bộ về lượng và chất, thực sự là “bình mới, rượu mới” thì mới đem lại sự hiệu quả, quá trình đó phải có sự giám sát, kiểm tra, công khai minh bạch, trước trong sau CPH. Đặc biệt, sau CPH cần kiên quyết hoạt động theo cơ chế thị trường thì mới đem lại giá trị gia tăng lớn.

- Tiến độ CPH hiện nay vẫn chậm so với kế hoạch đề ra, theo ông nguyên nhân do đâu?

Có 3 vấn đề lớn ảnh hưởng đến tiến độ CPH. Một là thể chế, vừa qua thể chế đã cơ bản tháo gỡ các vướng mắc, khó khăn chưa rõ ràng trong cơ chế, chính sách hay những lỗ hổng mà người dân quan tâm về đất đai, định giá đã được đặt theo quy trình minh bạch, chặt chẽ, công khai hơn.

Về thị trường, với nền kinh tế phục hồi, cùng với thị trường chứng khoán phát triển và phục hồi tương đối mạnh, dòng vốn nước ngoài đã được tăng cường. Các nhà đầu tư đều khẳng định đây là điểm đến của các dòng vốn nước ngoài kể cả dòng vốn trực tiếp lẫn gián tiếp vào Việt Nam.

Vấn đề cuối cùng là tổ chức thực hiện và quyết tâm thay đổi nhận thức của người đứng đầu doanh nghiệp, tuy nhiên có 3 việc chưa làm được. Thứ nhất là tính kỷ luật chấp hành chỉ đạo của cấp trên, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chưa được thực hiện nghiêm. Thứ hai là còn sự nhận thức e ngại trong việc thực hiện thực chất đổi mới khi CPH “bình mới, rượu mới”; tâm lý sợ mất vị trí, vai trò sau CPH; tư tưởng yên vị vẫn còn đã và đang kìm hãm tiến độ đổi mới. Thứ ba là tư tưởng né tránh trách nhiệm, sợ va chạm nên chưa làm quyết liệt, mạnh mẽ khi thực hiện quy trình mới chặt chẽ, công khai minh bạch, rõ ràng hơn và phải có nhiều bước đi hơn gắn với trách nhiệm cá nhân người đứng đầu DN, cơ quan.

- Thời gian tới, để nâng cao tiến độ CPH cần quyết liệt thực hiện những giải pháp gì, thưa ông?

Về cơ chế chính sách với tư cách là đơn vị xây dựng cơ chế, chính sách về vấn đề CPH, thoái vốn, Bộ Tài chính đã hoàn thành cơ bản đầy đủ khung khổ pháp lý. Trong quá trình triển khai có một số vấn đề mang tính đặc thù, Bộ đã cử cán bộ thường xuyên nắm bắt, kịp thời lắng nghe khó khăn để tháo gỡ vướng mắc của các tập đoàn, tổng công ty và các địa phương với thời gian nhanh nhất. Đặc biệt, tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, Bộ đã cử cán bộ tham gia Ban chỉ đạo CPH để kịp thời giải đáp, tháo gỡ khó khăn để đẩy nhanh tiến độ CPH, thoái vốn.

Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác đôn đốc, kiểm tra, giám sát lẫn chế tài đối với cơ quan đại diện chủ sở hữu, người đứng đầu DN. Đặc biệt cần rà soát lại các danh mục CPH, thoái vốn nếu đơn vị nào làm chậm phải có nhắc nhở, kiểm điểm. Trường hợp danh mục thoái vốn cơ quan, DN đã đăng ký năm 2017, 2018 không làm được thì cần mạnh dạn chuyển giao về Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC).

Cần yêu cầu các cơ quan, DN công bố công khai rõ ràng lộ trình thực hiện, theo tiến độ quý, 6 tháng, ghi rõ tên người chịu trách nhiệm. Ví dụ như Chủ tịch UBND tỉnh chịu trách nhiệm CPH doanh nghiệp A,B cần ghi rõ luôn trong lộ trình năm 2018, 2019, 2020. Việc kê rõ sẽ làm rõ tiến độ, đầu mối xử lý vướng mắc cũng rõ trách nhiệm người đứng đầu.

Một trong những giải pháp quan trọng khác sẽ được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đưa ra trong Hội nghị đổi mới cơ cấu lại DNNN tới đây là tập trung mạnh hơn ở khâu tổ chức thực hiện gắn với các chế tài, trách nhiệm đối với người đứng đầu DN, cơ quan đại diện chủ sở hữu; đồng thời đẩy mạnh việc công khai, minh bạch về lộ trình, tiến độ, kết quả và trách nhiệm người thực hiện. Lộ trình đó có giải pháp rõ ràng sẽ đảm bảo tiến độ CPH tại các DNNN.

- Vừa qua số lượng DN sau khi CPH phải chuyển về SCIC chiếm tỷ lệ rất thấp so với mục tiêu đề ra, theo ông nguyên nhân do đâu?

Việc bàn giao các DN sau CPH về SCIC còn chậm, đặc biệt giai đoạn 2016-2017, danh mục là 62 DN bàn giao nhưng thực tế chỉ bàn giao được 37 DN. Trong 8 tháng đầu năm nay mới có 4 DN được bàn giao.

Nguyên nhân ở đây là vấn đề e ngại của người đứng đầu DN. Họ sợ về tổ chức DN lúc đó sẽ tiến hành quản lý theo mô hình DN, công khai minh bạch theo cơ chế thị trường. Trong khi đó việc đánh giá hiệu quả và quyền lợi của người lãnh đạo DN nếu ở cơ quan đại diện chủ sở hữu hiện đang làm 2 nhiệm vụ vừa là cơ quan chủ sở hữu, vừa quản lý DN việc can thiệp sẽ không soi kỹ và còn du di về đánh giá hiệu quả gắn với trách nhiệm ban lãnh đạo DN.

Bên cạnh đó là sự quyết tâm của cơ quan đại diện chủ sở hữu. Có thể thấy vẫn còn sự luyến tiếc về đơn vị mà mình đã quản lý dẫn đến một số cơ quan ngại bàn giao và lấy nhiều lý do khác nhau để trì hoãn. Nếu đưa về SCIC đối với những DN đã CPH, SCIC có thể gia tăng giá trị của DN và thoái vốn tốt hơn. Khi thành lập Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại DN, một số cơ quan còn tư tưởng đợi Ủy ban hoạt động để về đây cho tương xứng với vị trí của mình thay vì về SCIC. Tuy nhiên việc này đã được Chính phủ công bố rõ, danh mục về Ủy ban là 19 tập đoàn, tổng công ty trong đó có SCIC.

Các DN sau CPH cần tiếp tục bàn giao về SCIC để đảm bảo thống nhất một đầu mối quản lý vốn nhà nước. Trong đó Ủy ban là cơ quan sở hữu trên SCIC, SCIC sẽ tiếp nhận các DN nhỏ. Cần đảm bảo sau năm 2020-2021 sẽ thu gọn được đầu mối quản lý DNNN theo đúng yêu cầu quản lý tách chức năng chủ sở hữu ra khỏi chức năng quản lý nhà nước.

- Giải pháp nào để đẩy nhanh tiến độ bàn giao các DN sau CPH về SCIC, thưa ông?

Tới đây trong Hội nghị đổi mới cơ cấu lại DNNN, Bộ Tài chính sẽ kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ cho phép những bộ, ngành xã hội như: Bộ LĐTBXH, Bộ Y tế, Bộ VHTTDL... có DN nào phải bàn giao ngay về SCIC. Đối với các bộ kinh tế ngành còn lại, đề nghị giảm bớt việc giao nhiệm vụ thoái vốn cho các bộ, ngành có DN đã CPH và đề nghị bàn giao về SCIC thực hiện để nhanh hơn, hiệu quả hơn, và công khai, minh bạch hơn.

Thực tế trong 2 năm 2017-2018 theo danh mục có gần 300 DN phải thoái vốn, tuy nhiên kết quả còn hạn chế. Trước mắt những DN đã CPH, đang trong quá trình thoái vốn trong danh mục năm 2017, năm 2018 chưa thực hiện được thì trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ kiên quyết bàn giao về SCIC. Những DN còn tồn tại về tài chính trong giai đoạn các cơ quan đại diện chủ sở hữu là bộ ngành, UBND quản lý chưa xử lý được thì phải quyết liệt xử lý dứt điểm xong đủ điều kiện bàn giao về SCIC. Đồng thời cần rà soát lại danh mục các DN CPH trong năm 2019-2020 nếu thấy vấn đề mà các bộ ngành không làm được thì cũng kiên quyết bàn giao về SCIC, như vậy mới đảm bảo hiệu quả sử dụng đồng vốn nhà nước và có đầu mối chịu trách nhiệm.

Bởi nếu để các bộ ngành quản lý thì việc chịu trách nhiệm vẫn còn “du di”, bởi vừa quản lý nhà nước nên ít có thời gian quản lý vốn. Chính vì thế khi xảy ra sự đổ vỡ việc quy trách nhiệm rất khó khăn và không rõ ràng. Bên cạnh đó, cần làm theo đúng cơ chế thị trường và công khai minh bạch.

Trân trọng cảm ơn ông!

Tin mới lên