Tình trạng hoảng loạn ngân hàng (banking panics) là khi mọi người đổ xô đến ngân hàng rút tiền ra khi mất niềm tin vào một hay nhiều ngân hàng. Tình trạng hoảng loạn ngân hàng làm cho nhiều ngân hàng sụp đổ, bất kể đố là ngân hàng quản lý tốt hay quản lý tồi.
Hiện nay tình trạng hoảng loạn ngân hàng ít xảy ra, vì ngân hàng trung ương tuyên bố sẽ cho các ngân hàng vay lượng tiền không hạn chế để trả cho khách hàng nếu tình trạng hoảng loạn ngân hàng xảy ra.
(Tài liệu tham khảo: Nguyễn Văn Ngọc, Từ điển Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân)
Hệ thống này đảm bảo mỗi khoản gửi tiết kiệm sẽ được bảo hiểm một số tiền nhất định, từ đó khoản tiết kiệm được bảo vệ ngay cả khi ngân hàng sụp đổ. Điều này loại bỏ động lực rút tiền gửi của một người khi những người khác đang rút tiền của họ.
Tuy nhiên, người gửi tiền vẫn có thể bị thúc đẩy bởi những lo sợ ví dụ như họ có thể thiếu quyền truy cập ngay lập tức vào các khoản tiền gửi. Để tránh những lo ngại đó kích hoạt một cuộc hoảng loạn ngân hàng, FDIC của Hoa Kỳ giữ bí mật hoạt động của nó và mở lại các chi nhánh thuộc quyền sở hữu mới vào ngày làm việc tiếp theo.
Các chương trình bảo hiểm tiền gửi của chính phủ có thể không hiệu quả nếu chính phủ bị coi là thiếu tiền mặt.
Chẳng hạn như quy định buộc các ngân hàng phải cho vay phù hợp với các kỳ hạn của các khoản vay và tiền gửi, do đó làm giảm đáng kể nguy cơ hoảng loạn ngân hàng.
Trong bối cảnh khủng hoảng gần đây, sự phức tạp cực độ của một số loại tài sản khiến cho những người tham gia thị trường khó có thể đánh giá tổ chức tài chính nào sẽ tồn tại, điều này làm tăng khủng hoảng bằng cách khiến cho hầu hết các tổ chức rất miễn cưỡng cho vay lẫn nhau.
Để ngăn chặn hoảng loạn ngân hàng, ngân hàng trung ương đảm bảo rằng sẽ là hoạt động như một "người cho vay cuối cùng". Hành động này để đảm bảo rằng, nếu ngân hàng trung ương vẫn còn khả thi về mặt kinh tế, họ sẽ luôn có đủ thanh khoản để bảo vệ tiền gửi của người dân.