Ngân hàng

‘Kết quả xử lý nợ xấu chưa vững chắc, nợ xấu bất động sản chiếm tỷ trọng cao’

(VNF) - Báo cáo của Ủy ban Kinh tế chỉ ra rằng kết quả xử lý nợ xấu chưa thực sự vững chắc, một số lĩnh vực chiếm tỷ trọng nợ xấu cao là bất động sản (chiếm 18,4%) và cho vay tiêu dùng (chiếm 25,8%).

‘Kết quả xử lý nợ xấu chưa vững chắc, nợ xấu bất động sản chiếm tỷ trọng cao’

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh

412.700 tỷ đồng nợ xấu chưa được xử lý theo Nghị quyết số 42

Tại Kỳ họp thứ 3, Quốc hội khoá XV, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng đã trình bày báo cáo tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng và Tờ trình về việc việc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ quy định của Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017.

Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, luỹ kế từ ngày 15/8/2017 đến ngày 31/12/2021, toàn hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) đã xử lý được 380.200  tỷ đồng nợ xấu theo Nghị quyết số 42, bằng 47,9% số nợ xấu theo Nghị quyết số 42 tại thời điểm 15/8/2017 và số nợ xấu theo Nghị quyết số 42 phát sinh mới trong thời gian Nghị quyết số 42 có hiệu lực. 

Trong số đó, 148.000 tỷ đồng là do khách hàng tự trả nợ (chiếm 38,93%), cao hơn so với mức 22,8% trung bình năm từ 2012-2017 do khách hàng tự trả nợ/tổng nợ xấu nội bảng đã xử lý. Kết quả xử lý, bán, phát mại tài sản bảo đảm (TSBĐ) để thu hồi nợ của TCTD và VAMC đạt 77.200 tỷ đồng, chiếm 20,3%.

Tính trung bình nợ xấu đã xử lý đạt khoảng 5.670 tỷ đồng/tháng, cao hơn mức trung bình 3.250 tỷ đồng/tháng trong giai đoạn trước khi Nghị quyết 42 có hiệu lực (từ năm 2012 – 2017).

Tuy nhiên, tính đến ngày 31/2/2021, tỷ lệ nợ xấu nội bảng, nợ bán cho VAMC và các khoản nợ tiềm ẩn thành nợ xấu ở mức cao là 6,31%. Nợ xấu chưa xử lý theo Nghị quyết số 42 đến 31/12/2021 vẫn ở mức cao là 412.700 tỷ đồng. Xử lý nợ xấu theo hình thức khách hàng tự trả nợ giảm do dịch Covid-19 tác động đến tình hình tài chính của khách hàng.

Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước đã nêu một số khó khăn, vướng mắc đến từ việc xử lý nợ xấu cũng như TSBĐ. Điển hình là tiêu chuẩn thẩm định giá khoản nợ xấu chưa có quy định cụ thể, khiến các doanh nghiệp thẩm định giá vận dụng phương pháp khác nhau, gây khó khăn trong việc lựa chọn mức giá tham khảo.

Về việc xử lý TSBĐ, nhiều khó khăn được nêu trong báo cáo về việc khách hàng không hợp tác bàn giao TSBĐ, sự phối hợp của cơ quan chức năng chưa kịp thời; toà án, cơ quan thi hành án dân sự chưa có hệ thống dữ liệu cho phép TCTD trích xuất, tra cứu thông tin liên quan để xử lý TSBĐ hay những vấn đề về áp dụng thủ tục rút gọn trong xử lý tranh chấp TSBĐ, thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử ý. TSBĐ.

Ngân hàng Nhà nước đề xuất kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ quy định của Nghị quyết số 42 và tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý về xử lý nợ xấu. Việc không được áp dụng Nghị quyết số 42 sẽ kéo dài quá trình xử lý nợ xấu, không khuyến khích, huy động được các nhà đầu tư nước ngoài tham gia công tác xử lý nợ xấu và cơ cấu lại các TCTD.

‘Nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42 có xu hướng tăng, cho vay tiêu dùng chiếm tỷ trọng cao’

Cũng tại kỳ họp, Ủy ban Kinh tế (UBKT) cho biết đa số ý kiến trong cơ quan này thống nhất với sự cần thiết kéo dài thời hạn áp dụng Nghị quyết số 42 đến hết ngày 31/12/2023 và đưa nội dung này vào Nghị quyết chung của kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV.

“Kết quả thí điểm xử lý nợ xấu trong thời gian qua đã chứng minh các chính sách, pháp luật về xử lý nợ xấu phát huy hiệu quả tích cực, giúp khơi thông dòng vốn, đưa dòng vốn luân chuyển vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế. Các chính sách xử lý nợ xấu cần được tiếp tục duy trì, nhất là trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp và những bất ổn chính trị trên thế giới sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, nợ xấu của các TCTD có khả năng tiếp tục tăng trong thời gian tới, nguy cơ làm mất đi những thành quả đã đạt được”, báo cáo của UBKT nêu rõ.

Tuy nhiên, cơ quan này cũng cho rằng kết quả xử lý nợ xấu chưa thực sự vững chắc, thực trạng nợ xấu cho thấy nền kinh tế vẫn tiềm ẩn rủi ro; một số biện pháp áp dụng theo Nghị quyết số 42 chưa phát huy hiệu quả (như áp dụng thủ tục rút gọn tại tòa án...).

Theo đó, UBKT cho rằng đối với nợ xấu nói chung, xử lý bằng dự phòng rủi ro còn chiếm tỷ lệ cao; một số lĩnh vực có số nợ xấu chiếm tỷ trọng cao so với nợ xấu của toàn hệ thống như: bất động sản (chiếm 18,4%); cho vay tiêu dùng (chiếm 25,8%); BOT, BT giao thông (3,92%)...

UBKT đề nghị phân tích rõ hơn nguyên nhân dẫn đến số nợ xấu được xác định theo Nghị quyết số 42 đến nay còn ở mức khá cao và có xu hướng gia tăng; các giải pháp đã triển khai thực hiện để nhận diện cũng như kiểm soát rủi ro đối với các khoản cho vay, nhất là các khoản thuộc các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao.

Tin mới lên