Tiêu điểm

Nhiều đầu tàu của ngành công nghiệp đang chậm lại

(VNF) – GDP công nghiệp quý IV/2019 chỉ tăng 7,92%, thấp hơn nhiều mức tăng của quý III (10,42%) và 9 tháng đầu năm (9,56%).

Nhiều đầu tàu của ngành công nghiệp đang chậm lại

Nhiều đầu tàu của ngành công nghiệp đang chậm lại

Công ty Cổ phần Chứng khoán SSI mới đây đã phát đi báo cáo “Cập nhật kinh tế Việt nam - Toàn cảnh tăng trưởng kinh tế 2019”. Báo cáo này đã chỉ ra sự suy giảm của sản xuất công nghiệp trong năm 2019, thể hiện ở cả ba cấu thành là: khai khoáng, công nghiệp chế biến chế tạo và sản xuất phân phối điện, khí đốt.

Tăng trưởng của khai thác quặng kim loại không “cứu” được cả ngành khai khoáng

Về khai khoáng, ngành này đã giảm 0,92% trong quý IV/2019. Khai thác dầu thô và khí tự nhiên quý IV giảm 3,6% là nguyên nhân chính kéo giảm ngành khai khoáng. Khai thác dầu ở các mỏ chủ lực trong năm 2019 đang trong giai đoạn suy kiệt, các mỏ mới phát hiện đều nhỏ, cận biên, điều kiện vận hành phức tạp, chi phí cao.

Khai thác than chỉ tăng 8,2% trong quý IV, thấp hơn nhiều quý III là 20,5%. Sự chậm lại của khai thác than được giải thích là do tính mùa vụ - khi đã qua mùa nắng nóng và sản lượng thủy điện tăng.

Điểm sáng của khai khoáng là khai thác quặng kim loại, khi ngành này có bước tăng mạnh trong quý IV (tăng 47,2%). Tuy nhiên do tỷ trọng của khai thác quặng kim loại khá nhỏ nên mức tăng trên không đủ bù đắp cho phần hụt đi của dầu khí.

Công nghiệp chế biến chế tạo tiếp tục cho thấy sự phụ thuộc nặng vào một vài doanh nghiệp FDI

Về công nghiệp chế biến chế tạo, ngành này đã giảm tốc độ tăng trưởng xuống 10,86% trong quý IV. Đây là mức thấp nhất trong nhiều quý qua.

Sự suy giảm của công nghiệp chế biến chế tạo thể hiện ở hầu hết các lĩnh vực. Cụ thể, sản xuất than cốc và dầu mỏ tinh chế giảm 16%. Nhà máy lọc hóa dầu Nghi Sơn bảo dưỡng 50 ngày trong quý IV đã làm sụt giảm mạnh tăng trưởng toàn ngành. Sang năm 2020, tăng trưởng của ngành cũng sẽ thấp do khó có thể tăng công suất nhà máy Dung Quất và Nghi Sơn.

Trong khi đó, sản xuất kim loại chỉ tăng 9,3%, chưa bằng 1/3 mức tăng trung bình của 3 quý đầu năm. Tăng trưởng cao của ngành sản xuất kim loại trong nhiều năm qua xuất phát từ dự án Formosa. Khi thị trường tiêu thụ nội địa và xuất khẩu khó khăn, sản lượng của Formosa giảm sút, kéo theo tăng trưởng toàn ngành. Theo thống kê của Hiệp hội thép, tổng sản lượng thép bán hàng trong 11 tháng là 21,2 triệu tấn, chỉ tăng 6,3%, (9 tháng còn tăng 8,5%) trong đó thép xuất khẩu là 4,2 triệu tấn, giảm 2,6% (9 tháng còn tăng 2,9%).

Sản xuất sản phẩm điện tử cũng đáng ngại khi chỉ tăng 5,1%, riêng tháng 12 giảm 3,3%, mức thấp nhất trong vòng 33 tháng. Ngành sản xuất điện tử sẽ chưa thể khả quan khi thị trường xuất khẩu điện thoại đã bão hòa. Nhập khẩu điện thoại và linh kiện liên tục sụt giảm, tháng 12 giảm 14%, là chỉ báo không tích cực cho sản xuất điện thoại và ngành điện tử trong giai đoạn đầu năm 2020.

Sản xuất xe có động cơ tăng 2,8%, riêng tháng 12 hồi phục 11,9% sau 4 tháng gần như không có tăng trưởng. Sự xâm lấn của ô tô nhập khẩu và cầu yếu đã khiến ngành sản xuất ô tô trong nước tăng chậm lại. Theo báo cáo bán hàng của VAMA, lượng xe lắp ráp trong nước tiêu thụ trong tháng 11 giảm 12,4% và tính chung 11 tháng giảm 12,8% trong khi xe nhập khẩu tăng tương ứng là 15% và 104%.

May mặc giảm tốc đáng báo động, quý IV chỉ tăng 3,7%. Chiến tranh thương mại thực tế đã có ảnh hưởng tiêu cực (thay vì tích cực như kỳ vọng) đến ngành dệt may từ 2 góc độ. Thứ nhất, tổng cầu dệt may toàn cầu tăng chậm – chỉ 3,3% thay vì 7,4% như năm 2018. Thứ hai, xu thế kinh doanh ngắn hạn, phòng thủ trước các diễn biến khó lường về chính sách thương mại quốc tế, dẫn tới khó tối ưu kế hoạch và chi phí cho doanh nghiệp dệt may

Theo SSI, các ngành công nghiệp có tỷ trọng lớn (sản phẩm điện tử, xe có động cơ, dệt may) và ngành vốn có tăng trưởng rất cao (dầu mỏ tinh chế, kim loại) tăng trưởng chậm lại đã ảnh hưởng đến toàn ngành công nghiệp chế biến chế tạo.

Điều tích cực là phần lớn các ngành công nghiệp khác vẫn có tăng trưởng ổn định như: dệt, sản xuất da, chế biến gỗ, giấy, sản phẩm từ cao su và plastic…

Sự tăng trưởng thấp trong quý IV của ngành công nghiệp chế biến chế tạo cho thấy sự phụ thuộc vào một vài doanh nghiệp FDI lớn như Samsung (điện thoại), Formosa (thép), Lọc hóa dầu Nghi sơn (dầu mỏ tinh chế). Và điều này mang đến nhiều rủi ro cho tăng trưởng.

Sự sụt giảm của các doanh nghiệp này phần lớn đến từ nguyên nhân khách quan là thị trường tiêu thụ, nhưng cũng không loại trừ nguyên nhân chủ quan là thay đổi chiến lược đầu tư. Việc hoạch định và dự báo kinh tế Việt Nam vì vậy cũng trở nên phức tạp.

Với điện thoại và lọc hóa dầu, SSI cho rằng việc can thiệp chính sách sẽ ít hiệu quả. Nhưng thép và sản xuất xe có động cơ có thể hỗ trợ bằng nhiều biện pháp. Ngoài dự án Formosa, năm 2020 dự án thép Hòa Phát Dung Quất sẽ đi vào hoạt động nên rất cần các biện pháp phòng hộ với thép Trung Quốc hay xúc tiến thương mại với các nước ASEAN (thị trường chính của thép xuất khẩu Việt nam). Giải ngân đầu tư công tăng tốc cũng sẽ làm tăng nhu cầu tiêu thụ thép và các vật liệu xây dựng khác.

Về sản xuất và phân phối điện, GDP sản xuất và phân phối điện, khí đốt quý IV có mức tăng thấp, chỉ 7,6%.

Sản lượng điện sản xuất có tăng nhưng tốc độ tăng ngày một chậm lại, tháng 12 chỉ còn tăng 3,9%, thấp nhất trong vòng 15 tháng (cùng kỳ tăng 11.5%). Ngoài vấn đề thời tiết, thời vụ, nhu cầu tiêu thụ cũng đã các tác động đến sản xuất của ngành. Điện thương phẩm năm 2019 đạt 209 tỷ kWh, tăng 8,87% (năm 2018 tăng 10,47%).

SSI lưu ý sản xuất điện năng và ngành công nghiệp có mối quan hệ khá tương đồng và cùng tăng chậm lại trong các tháng cuối năm 2019, đây một chỉ báo cần lưu tâm trong các quý đầu năm 2019.

Tin mới lên