TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo: 'Dư địa quá hẹp để hỗ trợ vài chục tỷ USD'
PGS.TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo -
25/11/2021 08:56 (GMT+7)
(VNF) - Dư địa tài khóa và tiền tệ của Việt Nam không còn nhiều để thực hiện một chương trình hỗ trợ phục hồi kinh tế quy mô lớn. Nếu cố thúc đẩy, hiệu quả chưa thể chắc chắn nhưng rủi ro bất ổn vĩ mô thì khá rõ ràng.
PGS.TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo, Đại học Kinh tế TP. HCM.
Hỗ trợ là cần thiết, nhưng...
Chính phủ đang chuẩn bị nội dung cho một chương trình hỗ trợ phục hồi nền kinh tế cho giai đoạn tới. Dự kiến, đây sẽ là chương trình hỗ trợ có quy mô rất lớn, thời gian thực hiện kéo dài và độ bao phủ rộng với kì vọng nâng cao tốc độ tăng trưởng GDP. Khách quan mà nói, đây là chương trình cần thiết để vực dậy nền kinh tế sau thời gian dài bị tàn phá bởi dịch bệnh. Tuy nhiên, quy mô, nội dung, cách thực hiện của chương trình hỗ trợ này có nhiều điểm cần phải được xem xét, cân nhắc kĩ lưỡng.
Điều đầu tiên cần thấy là mọi chương trình phục hồi đều phải lấy doanh nghiệp, người dân làm trọng tâm. Bởi vậy, điều quan trọng nhất ngay lúc này là Chính phủ phải có quy chế cho doanh nghiệp trở lại hoạt động, người dân được làm việc như bình thường; loại bỏ những rào cản mang tính cục bộ ở địa phương khi phòng chống dịch, đảm bảo nhất thống trong toàn quốc. Chính phủ cũng phải có cam kết mạnh mẽ để doanh nghiệp, người dân tin rằng “bình thường mới” là một trạng thái bền vững; tránh tình trạng “mở ra đóng vào” khiến niềm tin kinh doanh vụn vỡ.
Bên cạnh đó, Chính phủ nên cân nhắc về việc tạm hoãn các kế hoạch thanh, kiểm tra doanh nghiệp trong ít nhất 1 năm, giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí và thời gian. Tất cả là để tập trung toàn lực cho việc tái thiết sản xuất, kinh doanh.
Về quy mô gói hỗ trợ (quy ra tiền), có hai điểm cần lưu ý. Một là Chính phủ phải giải thích được vì sao chương trình hỗ trợ lại có quy mô đó. Hai là năng lực tài chính quốc gia còn đủ dư địa cho quy mô đó không. Chúng ta biết rằng ngân sách đã hao tốn quá nhiều trong 2 năm qua để thực hiện chiến lược “Zero Covid”. Do đó, chương trình hỗ trợ mới không nên tạo ra thêm một gánh nặng vượt quá sức chịu đựng của ngân khố quốc gia.
Đáng xem xét hơn nữa là dư địa tài khóa và tiền tệ hiện nay rất hạn hẹp để tung ra một gói hỗ trợ có quy mô quá lớn. Cụ thể, về dư địa tiền tệ, dù lạm phát 10 tháng qua ở mức thấp (chỉ tăng 1,81%) song nguy cơ lạm phát cao trong thời gian tới là rất rõ ràng do chi phí nguyên, nhiên, vật liệu và chi phí logistics đang tăng rất mạnh. Lạm phát tăng sẽ khiến lãi suất tăng theo. Doanh nghiệp đang yếu, gặp lãi cao sẽ rất khó kinh doanh.
Nếu Chính phủ cố ép lãi suất và tăng bơm tiền ra nền kinh tế, tiền chưa chắc đến được khu vực sản xuất mà nhiều khả năng sẽ chảy sang các kênh đầu cơ và tạo nên bong bóng giá tài sản. Mặt khác, cũng cần thấy rằng, nền kinh tế sau 2 năm dịch bệnh đã kiệt quệ, không đủ sức để hấp thụ một lượng vốn khổng lồ. Càng bơm tiền mạnh, bong bóng giá tài sản càng phình to, đe dọa tới sự ổn định vĩ mô. Đây là vết xe đổ mà Việt Nam đã gặp phải hơn mười năm trước.
Về tài khóa, tỷ lệ nợ công hiện nay tuy thấp, song điều đó có được là do Chính phủ tính lại GDP, không phải do cải thiện số nợ, chưa kể cách tính nợ công của Việt Nam còn có khác biệt so với quốc tế. Việc tăng vay nợ để tăng chi tiêu cũng phải được cân nhắc rất kĩ, vì vay thì có thể dễ nhưng trả sẽ rất mệt.
Cũng có quan điểm xem dự trữ ngoại hối (hiện đạt khoảng 100 tỷ USD) là dư địa tài khóa, song đó là một ngộ nhận. Dự trữ ngoại hối không phải là khoản tiền dự trữ của nhà nước bằng ngoại tệ mà đó là tổng lượng ngoại tệ mà một nền kinh tế có. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) tính dự trữ ngoại hối theo đơn vị “tuần nhập khẩu”, tức là số ngoại tệ đang có đủ để nhập khẩu liên tục trong bao nhiêu tuần. Số lượng ngoại tệ này không thuộc sở hữu hoàn toàn của nhà nước mà chủ yếu là tiền của doanh nghiệp, người dân, nhà đầu tư nước ngoài đang gửi tại các ngân hàng.
Tất nhiên, Ngân hàng Nhà nước, bằng các công cụ điều hành chính sách, có thể tạo ra các giao dịch hoán đổi khi cần thiết, song về bản chất đó không phải là tiền của nhà nước để được tính là dư địa tài khóa.
Như vậy, có thể thấy, dư địa để tung ra một chương trình hỗ trợ quá lớn là không có đủ. Song điều quan trọng hơn cả là mục tiêu của chương trình hỗ trợ. Nền kinh tế Việt Nam như người vừa ốm dậy, mục tiêu lúc này hồi sức chứ không phải để tập luyện thi đấu nâng cao thành tích. Chúng ta phải giúp doanh nghiệp sống được trước khi nghĩ tới chuyện tăng trưởng cao.
Hỗ trợ ai, hỗ trợ như thế nào?
Chương trình hỗ trợ phục hồi kinh tế, với quy mô lớn, thời gian dài, tất yếu sẽ bao gồm nhiều chương trình thành phần để cụ thể hóa. Kinh nghiệm hai năm thực hiện hỗ trợ nền kinh tế vừa qua cho thấy cần có quan điểm toàn diện khi xét tới việc ưu tiên hỗ trợ ngành nghề nào, doanh nghiệp nào.
Đồng ý rằng chúng ta sẽ ưu tiên những ngành là xương sống của nền kinh tế quốc dân, có tác động lan tỏa lớn, song cũng cần đánh giá tới từng đối tượng để tránh gây ra tình trạng bất công bằng trong nền kinh tế. Sự lắt léo của câu chữ, quy chuẩn, tiêu chuẩn có thể khiến việc hỗ trợ thiếu minh bạch, bất công, thậm chí là trục lợi chính sách, gây bức xúc trong dư luận.
Đối với việc hỗ trợ thuế, phí, Chính phủ nên xem xét việc hỗ trợ thuế thu nhập doanh nghiệp, bởi doanh nghiệp đã có thu nhập chịu thuế, tức là họ có khả năng chống chịu, thậm chí phát triển “nhờ” dịch bệnh. Giảm thuế cho các doanh nghiệp này không có nhiều ý nghĩa. Trong bối cảnh tài khóa không rộng rãi, việc chi tiền vào đâu nên được tính toán kĩ lưỡng, sao cho tiết kiệm tối đa mà hiệu quả tối ưu.
Về tín dụng, cần thấy rằng doanh nghiệp trong giai đoạn phục hồi sẽ khát vốn, song vay vốn không dễ do hồ sơ không đẹp. Thay vì cố gắng ra được một gói cấp bù lãi suất để bơm vốn rẻ ra thị trường mà hiệu quả còn bị nghi ngờ và dễ gây hệ lụy, Chính phủ nên có cơ chế bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp.
Về việc phát tiền trực tiếp cho người dân, đó là một nội dung tốt của chương trình hỗ trợ trong thời gian qua, song chưa hẳn là một ý tưởng tốt trong giai đoạn tới. Bởi việc phát tiền có ý nghĩa lớn nhất khi người dân thực hiện giãn cách xã hội nghiêm ngặt tại nhà.
Còn bây giờ, khi nền kinh tế đã bắt đầu hoạt động trở lại, việc hỗ trợ bằng tiền mặt nên được thực hiện dưới hình thức trợ giá cho các chi phí sinh hoạt như: tiền điện, tiền nước, tiền thuê mướn nhà trọ, học phí cho con trẻ, xăng dầu... Chúng ta cũng cần tính tới điều kiện của ngân sách nữa, vì Việt Nam không thể so sánh và học theo các nước giàu, chưa kể đặc điểm ăn ở, đi lại, chi tiêu của người Việt Nam cũng khác biệt với các nước.
Ở góc độ chủ quan, chúng tôi tin rằng việc thúc đẩy đầu tư công sẽ là nền tảng cho sự phục hồi. Trong nhiều năm, việc giải ngân đầu tư công thường chậm chạp, do vậy điều kiện hiện nay là cơ hội để Chính phủ mạnh tay trong giải ngân, cứu lấy nền kinh tế.
(VNF) - Theo TS. Nguyễn Sĩ Dũng, Việt Nam hoàn toàn có thể xây dựng một siêu đô thị biển quy mô 20 – 25 triệu dân vào năm 2050. Siêu đô thị này có thể đóng góp GDP vùng từ 700 đến 1.000 tỷ USD, trở thành "cực tăng trưởng thế kỷ" mới của châu Á, đủ sức tương tác với các trung tâm hàng đầu như Singapore, Seoul hay Tokyo.
(VNF) - Kỳ họp thứ 10 - kỳ họp cuối cùng của Quốc hội khóa XV chính thức được khai mạc từ cuối tháng 10. Đây là kỳ họp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vừa là bước tổng kết một nhiệm kỳ nhiều đổi mới, dân chủ, trách nhiệm và hiệu quả, vừa là sự chuẩn bị cho chặng đường của nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI với yêu cầu toàn diện và sâu sắc hơn.
(VNF) - Quá trình M&A trong lĩnh vực giáo dục không chỉ là vấn đề tài chính mà còn đòi hỏi sự nhạy bén trong quản trị văn hóa và vận hành. Đây là bài học mà ông Punendu Sharma, Giám đốc đầu tư (CIO) của EQuest Education Group, rút ra sau nhiều năm tham gia các thương vụ M&A tại Việt Nam.
(VNF) - Quỹ đất xanh tại các thành phố lớn đang dần thu hẹp, đặt ra thách thức với các cơ sở giáo dục trong việc xây dựng môi trường học tập lành mạnh. Tạp chí Đầu tư Tài chính - VietnamFinance đã có cuộc trò chuyện với bà Lê Nguyễn Trung Nguyên – Tổng giám đốc Hệ thống Giáo dục Victoria School về cách tiếp cận mô hình xanh, các cân nhắc về chi phí và vận hành, cũng như những khó khăn thực tế khi áp dụng tại môi trường đô thị Việt Nam.
(VNF) - Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIV đặt mục tiêu tăng trưởng GDP bình quân 10%/năm giai đoạn 2026–2030 – một tham vọng rất lớn trong bối cảnh mô hình tăng trưởng dựa vào lao động giá rẻ và FDI đã cạn dư địa. Các chuyên gia nhấn mạnh, muốn đạt được mục tiêu này, Việt Nam phải chuyển sang tăng trưởng dựa trên việc tăng năng suất và đổi mới sáng tạo.
(VNF) - TS Nguyễn Minh Cường cho rằng khi bàn về việc xây dựng trung tâm tài chính, cần đặt vấn đề trong bối cảnh: Liệu đây có phải là bước phát triển tiếp theo sau giai đoạn tự do hóa thương mại? Trung tâm tài chính có thể trở thành xuất phát điểm và động lực để thúc đẩy quá trình tự do hóa tài chính hay không?
(VNF) - Việt Nam đang hoàn thiện thể chế để thúc đẩy thương mại hóa tài sản trí tuệ, coi tri thức và công nghệ là động lực tăng trưởng mới và bền vững. Để làm điều đó, việc tạo hành lang pháp lý rõ ràng sẽ mở 'đường băng' đưa kết quả nghiên cứu và sáng tạo từ phòng thí nghiệm ra thị trường, thúc đẩy nền kinh tế tri thức.
(VNF) - Theo các chuyên gia, hiện tại là giai đoạn "vàng" để doanh nghiệp Việt tận dụng cơ hội từ Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA). Tuy nhiên, các quy định mới của EU về phát triển bền vững và bảo hộ thương mại đòi hỏi doanh nghiệp phải chủ động thích ứng, nếu không muốn bỏ lỡ lợi thế mà EVFTA mang lại.
(VNF) - Cơ chế Nhà nước đặt hàng doanh nghiệp tham gia vào các dự án lớn không chỉ mở ra cơ hội lớn cho Việt Nam trong việc xây dựng xây dựng đội ngũ doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh mà còn mở ra cơ hội để nâng cao năng lực nội sinh cho nền kinh tế.
(VNF) - Theo Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Mạnh Hùng, trí tuệ nhân tạo (AI) phải đi trong một “hành lang hẹp” giữa hỗn loạn và kiểm soát, giữa tự do và nỗi sợ hãi. Nhiệm vụ của chúng ta là định hướng bằng sự khôn ngoan và trách nhiệm. Một nhà nước mạnh phải bảo vệ những giá trị nhân văn, trong khi một xã hội cởi mở phải khuyến khích sáng tạo và đối thoại.
(VNF) - TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương
(CIEM) cho rằng, nếu không có đột phá mạnh mẽ về thể chế và nâng cao năng suất, chất lượng,
nền kinh tế Việt Nam sẽ khó thoát khỏi vòng luẩn quẩn tăng trưởng theo chiều rộng.
(VNF) - Bà Đào Thị Thu Thủy, Giám đốc chương trình MBA, Chánh văn phòng Tổ chức Khoa học và Chuyên gia Việt Nam toàn cầu (AVSE Global) khẳng định, khu vực kinh tế tư nhân đóng vai trò trung tâm trong hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng hai con số mà Việt Nam hướng tới trong những thập niên tới, nhờ vàosức mạnh của động lực nội sinh, tính linh hoạt cao, khả năng tạo việc làm lớn
và sức cạnh tranh ngày càng gia tăng.
(VNF) - TS. Nguyễn Bá Hùng, Chuyên gia kinh tế trưởng ADB tại Việt Nam, cho rằng Việt Nam cần thay đổi mô hình tăng trưởng, bởi mô hình dựa nhiều vào mở rộng nguồn lực đã bộc lộ hạn chế. Để duy trì tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, nền kinh tế cần chuyển dịch sang hướng chú trọng hiệu quả và đổi mới sáng tạo.
(VNF) - Trong bối cảnh pháp luật còn chồng chéo, việc phân định rủi ro kinh doanh
thông thường và hành vi vi phạm hình sự không hề dễ dàng. Điều này đặt ra yêu
cầu cấp thiết phải hoàn thiện thể chế để bảo vệ doanh nghiệp, doanh nhân, đồng
thời giữ nghiêm kỷ cương pháp luật. Tạp chí Đầu tư Tài chính đã có cuộc trao
đổi với luật sư Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch SB Law, về vấn đề này.
(VNF) - Theo nữ tỷ phú Nguyễn Thị Phương Thảo, chuyện "giải cứu" HoSE cho thấy khu vực tư nhân hoàn toàn có đủ năng lực thúc đẩy các lĩnh vực công nghệ then chốt.
(VNF) - Từ câu chuyện của VEAM, có thể thấy Nhà nước cần đứng ra tạo điều kiện hơn nữa cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển ngành ô tô - xe máy Việt Nam.
(VNF) - Theo ông Hồ Đức Thắng - Viện trưởng Viện Công nghệ số và Chuyển đổi số Quốc gia, việc đưa AI vào giảng dạy ngay từ bậc tiểu học là bước đi táo bạo, song để “đi nhanh mà chắc”, cần một lộ trình thận trọng, khả thi và đặt an toàn cũng như chất lượng giáo dục lên hàng đầu.
(VNF) - Bà Natalie Nguyễn – Chuyên gia hơn 20 năm kinh nghiệm trong ngành bán dẫn quốc tế cho rằng Việt Nam đang đứng trước một “cửa sổ cơ hội” hiếm hoi để chen chân vào bản đồ bán dẫn thế giới, nếu có chiến lược đúng và hành động kịp thời.
(VNF) - Ông Chu Thúc Đạt - Phó Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo nhận định: "Đổi mới sáng tạo không thể chỉ dừng lại ở nghiên cứu hàn lâm mà phải được thương mại hóa, tạo ra giá trị thực tiễn. Chuyển giao công nghệ trở thành chiếc cầu nối giúp đưa ý tưởng và kết quả nghiên cứu ra thị trường, giải quyết các bài toán của quốc gia, ngành và địa phương, đồng thời mở ra dòng chảy giá trị mới cho doanh nghiệp".
(VNF) - Theo TS. Lương Minh Huân - Viện trưởng Viện Phát triển doanh nghiệp VCCI, để xây dựng nền công nghiệp tự chủ và hùng cường, doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động nâng cao năng lực, đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, hiệp hội và các tổ chức hỗ trợ trong việc mở rộng khả năng tham gia vào chuỗi cung ứng nội địa và toàn cầu.
(VNF) - AI và công nghệ được xem là “ánh sáng” của thời đại mới, mở ra cơ hội giúp Việt Nam bứt phá. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, song hành với khát vọng đi nhanh, đất nước phải bảo đảm an sinh xã hội, đầu tư cho con người và thu hẹp khoảng cách công nghệ, nếu không sẽ tạo ra những bất bình đẳng mới.
(VNF) - Theo Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Nguyễn Mạnh Hùng, chiến lược phát triển AI của Việt Nam là “vừa nhanh, vừa an toàn, vừa nhân văn”. AI phải phục vụ con người, là trợ lý cho con người, không thay thế tư duy, giá trị và trách nhiệm của con người với tầm nhìn tầm nhìn AI sẽ trở thành “hạ tầng trí tuệ” của quốc gia.
(VNF) - Đại tướng Lương Tam Quang - Bộ trưởng Bộ Công an cảnh báo: Trí tuệ nhân tạo có thể bị lợi dụng vào các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, gây bất ổn xã hội, hoặc dẫn tới các dạng chiến tranh phi truyền thống trong không gian mạng, thông tin và dư luận
(VNF) - Theo ông Nguyễn Văn Hậu - CEO NetVietTV, Chủ tịch VSBC, AI đang bùng nổ toàn cầu, nhưng tại Việt Nam, tỷ lệ người dùng AI đúng cách chưa tới 5%. Nguyên nhân không nằm ở “prompt chưa hay” mà ở chỗ chưa có tư duy hệ thống, thiếu chiến lược dữ liệu và dễ sa vào trào lưu FOMO.
(VNF) - Theo TS. Nguyễn Sĩ Dũng, Việt Nam hoàn toàn có thể xây dựng một siêu đô thị biển quy mô 20 – 25 triệu dân vào năm 2050. Siêu đô thị này có thể đóng góp GDP vùng từ 700 đến 1.000 tỷ USD, trở thành "cực tăng trưởng thế kỷ" mới của châu Á, đủ sức tương tác với các trung tâm hàng đầu như Singapore, Seoul hay Tokyo.
(VNF) - Gần 3ha đất nông nghiệp của Tân Á Đại Thành ở quận Hoàng Mai cũ (Hà Nội) được chuyển đổi mục đích sử dụng để thực hiện tổ hợp nhà ở, văn phòng.