'Thăm' khu đất xây 365 căn nhà ở xã hội ngay trong nội đô Hà Nội
(VNF) - Dự án nhà ở xã hội NO1 thộc Khu đô thị mới Hạ Đình, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân và xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.
- Tăng trưởng của Việt Nam trong 7 tháng rất khả quan. Ông có bình luận gì về việc thúc đẩy tăng trưởng trong những tháng còn lại?
TS. Nguyễn Quốc Việt: Cùng với việc kiểm soát thành công dịch bệnh Covid-19, việc mở cửa hoàn toàn nền kinh tế, thúc đẩy và hỗ trợ hoạt động sản xuất kinh doanh trong trạng thái bình thường mới đã tạo niềm tin của doanh nghiệp và người dân vào sự phục hồi kinh tế.
Điều này thể hiện rõ nhất tổng đầu tư xã hội, nhất là đầu tư FDI và đầu tư tư nhân, đã có những tăng trưởng ngoạn mục từ cuối 2021 đến nay; tăng trưởng tín dụng cũng tăng cao ngay từ đầu năm và đạt đỉnh vào tháng 7; số lượng doanh nghiệp, hộ kinh doanh quay trở lại hoạt động và mở mới tăng khá cao; bức tranh việc làm và lao động khởi sắc, thu nhập của người lao động được cải thiện qua đó hỗ trợ ổn định an sinh xã hội sau đại dịch.
Thành công lớn tiếp theo trong nửa đầu năm là trong bối cảnh toàn cầu có nhiều bất ổn, trong nước sản xuất – kinh doanh và sức cầu tiêu dùng nội địa đã phục hồi mạnh mẽ thì các yếu tố kinh tế vĩ mô vẫn được duy trì ổn định nhờ những nỗ lực điều hành và các chính sách bình ổn khá linh hoạt, kịp thời của chính phủ. Trong đó thành công nhất phải kể đến là chính sách và các biện pháp kìm chế lạm phát. Lạm phát của Việt Nam là thấp nhất trong khu vực ASEAN và được nhiều tổ chức quốc tế dự báo sẽ có khả năng duy trì trong mục tiêu đề ra của năm 2022 là 4%.
- Các tổ chức kinh tế cảnh báo một cuộc suy thoái đồng loạt ở những nền kinh tế hàng đầu thế giới như Mỹ, châu Âu, Nhật Bản. Nếu điều này xảy ra, hệ quả của nó tới các nền kinh tế, trong đó có Việt Nam sẽ là gì?
Các chuyên gia kinh tế dự báo do ảnh hưởng của lạm phát tăng cao và dai dẳng đồng thời phải đối phó với các căng thẳng, bất ổn địa chính trị toàn cầu, các quốc gia hiện thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt, tăng đua lãi suất dẫn đến bóp nghẹt sản xuất lẫn tiêu dùng, dẫn đến nguy cơ mất việc làm, giảm đầu tư và rơi vào vòng soáy suy thoái.
Nếu các quốc gia, nhất là các quốc gia phát triển và là bạn hàng, nhà đầu tư chiến lược của Việt Nam thực sự rơi vào suy thoái kinh tế nửa cuối năm 2022, tăng trưởng của Việt Nam cũng sẽ gặp một số bất lợi.
Một là đơn hàng xuất khẩu sẽ hạn chế hơn, cạnh tranh thương mại sẽ gia tăng cao hơn. Trên thực tế, đã có những dấu hiệu suy giảm tốc độ tăng trưởng của các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong nửa cuối tháng 6 và tháng 7/2022.
Hai là việc suy giảm năng lực sản xuất toàn cầu do suy thoái cũng ảnh hưởng trầm trọng hơn đến chuỗi cung ứng, gây đứt gãy các nguồn cung đầu vào cho các lĩnh vực sản xuất chủ lực của Việt Nam (nhất là lĩnh vực công nghiệp chế biến – chế tạo hướng tới xuất khẩu), vốn dĩ đã từng bị tổn thương bởi dịch bệnh và các căng thẳng địa chính trị toàn cầu. Bằng chứng cũng tương tự là kim ngạch và khối lượng nhập khẩu (nhất là khu vực FDI) cũng có những dấu hiệu suy giảm trong 2 tháng gần đây.
Ba là việc thắt chặt tiền tệ và tăng lãi suất khiến các dòng vốn đầu tư (cả trực tiếp và gián tiếp) sẽ có những biến động khó lường, sức hấp dẫn môi trường đầu tư của Việt Nam có thể giảm đi nếu nền kinh tế cũng bị ảnh hưởng tiêu cực do suy thoái toàn cầu, trong khi những ổn định vĩ mô của nền kinh tế không được duy trì.
- Đâu là rào cản, thách thức lớn nhất đối với nỗ lực tăng trưởng và kiềm chế lạm phát trong giai đoạn còn lại của năm 2022?
Rào cản lớn nhất và thách thức lớn nhất vẫn đến từ những yếu kém nội tại của nền kinh tế như: cải cách thể chế và môi trường kinh doanh vẫn còn những hạn chế và là điểm nghẽn làm nản lòng các nhà đầu tư cũng như doanh nghiệp; bên cạnh việc thiếu hụt lao động trong một bộ phận/lĩnh vực có tăng trưởng nóng thì chất lượng và năng suất lao động, trình độ công nghệ vẫn là điểm yếu cố hữu của tăng trưởng nói chung và phát triển đầu tư, kinh doanh nói riêng (nhất là cơ hội đón đầu những xu hướng FDI mới); các yếu tố tăng trưởng chưa thực sự bền vững, nhất là trong xuất khẩu, giá trị gia tăng chưa cao, sự tham gia của doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi sản xuất toàn cầu và ngay tại Việt Nam còn rất hạn chế.
Thách thức thứ hai là cân bằng giữa mục tiêu ổn định vĩ mô, ổn định giá cả, kìm chế lạm phát với các mục tiêu duy trì tăng trưởng (bao gồm xử lý giữa việc bình ổn giá cả trong điều kiện áp lực tăng giá và chi phí sản xuất, ổn định tỷ giá với cung tiền, lãi suất…)
Thách thức thứ ba là trong bối cảnh các quốc gia chạy đua tăng lãi suất, sức cạnh tranh xuất khẩu (động lực rất quan trọng tăng trưởng kinh tế Việt nam từ cuối 2021) sẽ có khả năng bị suy giảm.
- Lạm phát hiện đang được coi là nỗi lo lớn với các nhà quản lý kinh tế trên thế giới. Đó cũng là thách thức của Việt Nam mà ông đã chỉ ra bên trên. Theo ông, Chính phủ cân bằng thế nào?
Với những thành công của tăng trưởng kinh tế nửa đầu năm đi đôi với sự ổn định kinh tế vĩ mô tương đối so với các nước trong khu vực, Việt Nam vẫn còn dư địa chính sách để đối phó với áp lực lạm phát và những diễn biến đua tăng lãi suất trên thế giới, tuy nhiên cũng không nên chủ quan, nhất là trước nguy cơ suy thoái kinh tế toàn cầu phân tích ở trên.
Nửa đầu năm cũng cho thấy những chính sách điều hành của Ngân hàng Nhà nước khá linh hoạt và thận trọng, vừa đảm bảo ổn định tỷ giá đồng tiền Việt Nam so với USD. Đây là yếu tố rất quan trọng, vừa ổn định và kìm chế lạm phát, vừa đảm bảo an toàn môi trường đầu tư. Vì thế, các chính sách này vẫn nên được duy trì có chọn lọc, nhưng cần có sự thông tin rộng rãi hơn, kịp thời hơn để doanh nghiệp có sự ứng phó kịp thời khi có những điều chỉnh chính sách.
Do sự phục hồi sản xuất kinh doanh và cầu trong nước có thể tăng vào cuối năm, tăng trưởng tín dụng sẽ tạo sức ép nhất định, do vậy nếu dự báo cuối năm tình hình lạm phát có thể được kìm chế tốt, thì Chính phủ nên cân nhắc một số động thái nới lỏng hỗ trợ tăng trưởng như nới “room” tín dụng và đặc biệt triển khai gói hỗ trợ 2% lãi suất theo đúng nghị quyết của Chính phủ.
Nhấn mạnh rằng, mặc dù cần nới trần tăng trưởng tín dụng để hỗ trợ vốn cho phục hồi sản xuất, kinh doanh, tuy nhiên việc đảm bảo kiểm soát các yếu tố rủi ro tài chính vẫn phải ưu tiên, bởi sự bất ổn hoặc đổ vỡ trong hệ thống tài chính sẽ kéo theo sự mất ổn định vĩ mô và từ đó lại ảnh hưởng đến mục tiêu tăng trưởng.
- Bình quân mỗi tháng có hơn 19.000 doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động. Ngược lại, có 13.500 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường mỗi tháng. Ông có nhận xét và khuyến nghị gì với cộng đồng doanh nghiệp?
Trong bối cảnh nhiều yếu tố xấu– tốt đan xen, rủi ro và bất ổn vĩ mô toàn cầu tăng cao, các doanh nghiệp, ngành hàng cần chủ động nắm bắt tốt hơn các tín hiệu của nền kinh tế trong và ngoài nước để có những dự báo về thị trường (cả trong và ngoài nước) và điều chỉnh kế hoạch sản xuất, kinh doanh linh hoạt, phòng ngừa các rủi ro kinh doanh tốt hơn.
Các doanh nghiệp/hiệp hội và ngành hàng cũng cần chủ động trong việc phối hợp với các cơ quan nghiên cứu/tư vấn và chuyên gia kinh tế để có những đánh giá về các phản ứng chính sách (trong và ngoài nước) liên quan đến một loạt các vấn đề kinh tế vĩ mô hoặc theo ngành/lĩnh vực để từ đó có hiểu biết hơn các kênh hỗ trợ chính sách của Chính phủ, nhất là tình hình triển khai các gói phục hồi kinh tế thời gian tới (mặc dù bao giờ cũng có độ trễ) để từ đó tận dụng tốt hơn các hỗ trợ này nhằm ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp cũng cần củng cố lại văn hoá và nền tảng quản trị kinh doanh, thực hành liêm chính, quan tâm các chính sách nhằm hỗ trợ lao động và phát triển nhân lực từ đó chuyển đổi mô hình kinh doanh theo hướng phù hợp chuẩn mực/thông lệ quốc tế và các hiệp định thương mại đầu tư thế hệ mới, gắn với các mô hình chuyển đổi số, qua đó tham gia sâu hơn và đạt giá trị gia tăng cao hơn của các doanh nghiệp/ngành/sản phẩm trong các chuỗi giá trị/sản xuất quốc tế và chiếm lĩnh lòng tin của người tiêu dùng trong nước.
- Theo ông, động lực để phát triển kinh tế Việt Nam những tháng cuối năm là gì?
Kinh tế muốn phát triển thì vẫn phải dựa vào niềm tin của doanh nghiệp, dân doanh, vào sự ổn định vĩ mô và sự thông thoáng của môi trường kinh doanh/đầu tư. Do vậy động lực của tăng trưởng và phát triển kinh tế vẫn phải trước hết đến từ những sáng kiến cải cách nhằm thúc đẩy môi trường kinh doanh được tốt hơn, thể chế kinh tế thị trường được hoàn thiện hơn.
Điều này không những đòi hỏi sự quyết tâm chính trị mà cần sự vào cuộc thực sự từ các cấp trung ương cho đến từng ngành và địa phương, nhất là thường xuyên có sự rà soát, đánh giá lại các chính sách, quy định nhằm loại bỏ những rào cản, những yếu tố gây khó khăn, tăng chi phí và phiền hà cho doanh nghiệp, dân doanh.
Khu vực kinh tế tư nhân qua dịch bệnh đã chứng tỏ sự linh hoạt và sức chống chịu tốt, vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng đầu tư mạnh mẽ trong và sau dịch. Với sự quay trở lại cũng như thành lập mới của hàng chục nghìn doanh nghiệp, đây chắc chắn sẽ là động lực to lớn cho sự phục hồi sản xuất – kinh doanh và tăng trưởng những tháng cuối năm 2022. Do vậy để phát triển kinh tế tư nhân, xây dựng một nền kinh tế tự chủ, tự lực và có khả năng hội nhập thì việc quan tâm và hỗ trợ, nhất là những hỗ trợ về vốn, lao động, tiếp cận thị trường (cả cung và cầu) cũng như tham gia và chuỗi cung ứng sẽ và nên là ưu tiên chính sách của nhà nước nhằm phát triển kinh tế nói chung và phục hồi tăng trưởng nói riêng.
Khu vực kinh tế đối ngoại, nhất là khối sản xuất (chủ lực là công nghiệp chế biến – chế tạo với đầu tầu là các doanh nghiệp FDI) vẫn sẽ đóng vai trò chủ công đóng góp vào tăng trưởng kinh tế năm nay. Việc tiếp tục quan tâm giải quyết những vướng mắc về môi trường kinh doanh, tháo gỡ khó khăn về thiếu lao động hoặc các yếu tố đứt gãy chuỗi cung ứng là điểm cần lưu ý để hỗ trợ cho khu vực kinh tế đối ngoại và thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam nửa còn lại của năm 2022.
Cuối cùng là sự phục hồi cầu tiêu dùng trong nước đi đôi với khu vực dịch vụ thiết yếu, ăn uống, giải trí, du lịch chắc chắn cũng sẽ đóng góp mạnh mẽ vào đà tăng trưởng cuối năm. Đặc điểm của khu vực này là các doanh nghiệp vừa và nhỏ cùng nhóm gần 5 triệu hộ kinh doanh có sức sống dẻo dai nhưng cũng rất cần các chính sách thiết thực nhằm hỗ trợ và tạo điều kiện để phát triển một cách ổn định, được thụ hưởng công bằng về chế độ như các loại hình doanh nghiệp khác.
- Thủ tướng Chính phủ đã nhấn mạnh các trọng tâm chỉ đạo, điều hành và nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu trong tình hình mới. Trong đó yêu cầu “4 ổn định, 3 tăng cường, 2 đẩy mạnh, 1 tiết giảm và 1 kiên quyết không”. Ông nhận xét gì về những chỉ đạo này?
Tôi cho rằng, với thông điệp này, các chỉ đạo trong thời gian tới sẽ điều hành thận trọng không chạy theo tăng trưởng mà làm mất ổn định vĩ mô.
Xu hướng toàn cầu sẽ là giảm điểm tăng trưởng, bất ổn địa chính trị vẫn hiện hữu nên tăng trưởng năm 2022 của Việt Nam chỉ đạt được mục tiêu 6,5% mà đó cũng là mức tốt rồi.
(VNF) - Dự án nhà ở xã hội NO1 thộc Khu đô thị mới Hạ Đình, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân và xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.