Cổ phần hóa 180 doanh nghiệp nhà nước thu về 36.518 tỷ đồng trong giai đoạn 2016 - 2020

Nghi Xuân - 22/07/2021 18:48 (GMT+7)

(VNF) - Trong năm 2020, cả nước đã cổ phần hóa được 9 doanh nghiệp nhà nước, số tiền thu từ cổ phần hóa là 949 tỷ đồng. Lũy kế cả giai đoạn 2016-2020, đã có 180 doanh nghiệp nhà nước được phê duyệt phương án cổ phần hóa với số tiền thu được là 36.518 tỷ đồng.

VNF
Còn 89 doanh nghiệp nhà nước chưa hoàn thành cổ phần hóa theo kế hoạch.

Theo báo cáo kết quả thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong năm 2020, Chính phủ cho biết đã trình Quốc hội thông qua Luật Doanh nghiệp năm 2020 (thay thế  cho Luật Doanh nghiệp năm 2014), với các nội dung, quy định nhằm thúc đẩy đổi mới, nâng cao hiệu quả quản trị và hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có sở hữu Nhà nước.

Luật Doanh nghiệp năm 2020 cũng đã sửa đổi khái niệm doanh nghiệp nhà nước và phân định doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ và doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu hơn 50% (đến dưới 100%) vốn điều lệ để có phương thức quản lý, giám sát phù hợp.

Chính phủ cũng đã ban hành các nghị định, nghị quyết để tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật theo các nghị quyết của Trung ương Đảng, Quốc hội, để quản lý chặt chẽ, công khai minh bạch, tiết kiệm, hiệu quả vốn, tài sản của Nhà nước; tối đa hóa lợi ích của Nhà nước;

Đồng thời tháo gỡ khó khăn vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, thoái vốn; tính đúng, tính đủ giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa; tách quá trình xử lý liên quan đến đất đai ra khỏi quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, nhằm hạn chế thất thoát, lãng phí.

Trong năm 2020, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành quyết định phê duyệt danh mục doanh nghiệp có vốn nhà nước thực hiện thoái vốn đến hết năm 2020, nhằm đẩy nhanh tiến độ thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ, gắn với việc đảm bảo nguồn thu cho phù hợp với Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020; thúc đẩy quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước để tập trung vào những khâu, công đoạn then chốt của nền kinh tế.

Năm 2020, cả nước đã thoái vốn được 2.506 tỷ đồng, thu về 5.967 tỷ đồng (lũy kế cả giai đoạn 2016-2020 đã thoái vốn 27.312 tỷ đồng, thu về 177.397 tỷ đồng, gấp 6,5 lần giá trị ghi sổ kế toán), chuyển nộp vào ngân sách nhà nước để phục vụ đầu tư trung và dài hạn 16.700 tỷ đồng (lũy kế cả giai đoạn 2016-2020 đã nộp vào NSNN 221.700 tỷ đồng).

Cũng trong năm qua, Chính phủ đã chuyển giao phần vốn nhà nước tại 8 doanh  nghiệp, gồm: Tổng công ty Rượu-Bia-Nước giải khát Sài Gòn, Tổng công ty Đầu tư Nước và Môi trường Việt Nam, Tổng công ty Tư vấn xây dựng Việt Nam, Tổng công ty Vật liệu xây dựng số 1, Tổng công ty Sông Đà, Công ty Cổ phần Cung ứng nhân lực quốc tế và thương mại, Công ty Cổ phần Nhân lực quốc tế Sovilaco, Công ty Cổ phần Bệnh viện GTVT về Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC).

Cả nước cũng đã cổ phần hóa được 9 doanh nghiệp nhà nước, số tiền thu từ cổ phần hóa 949 tỷ đồng. Lũy kế cả giai đoạn 2016-2020 có 180 doanh nghiệp nhà nước được phê duyệt phương án cổ phần hóa, số tiền thu từ cổ phần hóa là 36.518 tỷ đồng.

Trong năm vừa qua, Thủ tướng Chính phủ cũng đã thành lập ban chỉ đạo, phê duyệt đề án xử lý các tồn tại, yếu kém của một số dự án, doanh nghiệp chậm tiến độ, kém hiệu quả thuộc ngành Công Thương.

Đến nay, công tác chỉ đạo xử lý tồn tại, yếu kém ở các dự án, doanh nghiệp đã được thực hiện thống nhất, đồng bộ, bảo đảm bám sát quan điểm, mục tiêu, nội dung chỉ đạo của Bộ Chính trị và phương án, giải pháp xử lý các dự án, doanh nghiệp theo Đề án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Các giải pháp xử lý, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đối với các dự án, doanh nghiệp đã được triển khai thực hiện một cách tổng thể, toàn diện, tạo được những chuyển biến tích cực.

Cụ thể, đã đưa 3 dự án (nhà máy sản xuất phân bón DAP-1 Hải Phòng, nhà máy Nhiên liệu sinh học Phú Thọ, nhà máy Nhiên liệu sinh học Bình Phước) ra khỏi danh sách theo dõi, xử lý của ban chỉ đạo; xử lý vướng mắc quyết toán dự án đối với Công ty Công nghiệp tầu thủy Dung Quất; báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội sửa đổi chính sách thuế giá trị gia tăng đối với mặt hàng phân bón, bảo đảm công bằng giữa hàng sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu.

Chính phủ cũng đã chỉ đạo quyết liệt việc xử lý vướng mắc tranh chấp hợp đồng thiết kế, cung cấp thiết bị và thi công (EPC), chưa quyết toán được của 5 dự án, gồm: DAP-2 Lào Cai, Đạm Hà Bắc, Đạm Ninh Bình, TISCO-2, Công ty CN tàu thủy Dung Quất; tiếp tục tìm phương án xử lý mới đối với dự án Nhà máy Bột giấy Phương Nam, khi các phương án hiện hành đều vướng mắc.

Tuy nhiên, đến nay, số liệu thiệt hại về kinh tế cho Nhà nước của 12 doanh nghiệp/dự án thuộc đề án xử lý các tồn tại, yếu kém của một số dự án, doanh nghiệp chậm tiến độ, kém hiệu quả thuộc ngành Công Thương chưa được xác định đầy đủ, do có 5/12 dự án còn tranh chấp, vướng mắc hợp đồng EPC do đó, chưa hoàn thành quyết toán và xác định chính xác giá trị các dự án.

Theo số liệu ước tính 6 tháng đầu năm 2020, tình hình tài chính của 12 dự án/doanh nghiệp chậm tiến độ, kém hiệu quả ngành công thương như sau: vốn chủ sở hữu là -7.264,61 tỷ đồng; tổng tài sản là 59.152,88 tỷ đồng; tổng nợ phải trả là 63.308,82 tỷ đồng; lỗ lũy kế 26.360,88 tỷ đồng.

Theo báo cáo của Chính phủ, tiến độ cổ phần hóa và tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước còn chậm, chưa đạt kết quả đề ra. Tính đến ngày 24/12/2020 mới thực hiện đạt 27,3% kế hoạch.

Hiện vẫn còn 89 doanh nghiệp nhà nước chưa hoàn thành cổ phần hóa theo kế hoạch, trong đó Hà Nội có 13 doanh nghiệp (4 tổng công ty), chiếm 14% kế hoạch; TP. HCM có 38 doanh nghiệp (11 tổng công ty), chiếm 40% kế hoạch; Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp có 6 doanh nghiệp (3 tập đoàn, 3 tổng công ty), Bộ Xây dựng có 2 tổng công ty.

Nguyên nhân chủ yếu được xác định là liên quan đến việc phê duyệt phương án sử dụng đất theo Nghị định số 167 của Chính phủ. Đến nay, Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ đạo khẩn trương ban hành nghị định thay thế Nghị định số 167, để tháo gỡ khó khăn, đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, đảm bảo công khai, minh bạch, tránh thất thoát ngân sách nhà nước.

Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp chậm quyết toán cổ phần hóa, dẫn đến khó khăn trong quá trình hoạt động của công ty cổ phần, ảnh hưởng đến quá trình thoái vốn tại doanh nghiệp, chẳng hạn như Tổng công ty Thép Việt Nam đã cổ phần hóa từ năm 2011 đến nay vẫn chưa hoàn thành quyết toán.

Ngoài ra, công tác quản trị tại nhiều doanh nghiệp chưa thực sự theo cơ chế thị trường; quản lý rủi ro còn lỏng lẻo; chi phí sản xuất kinh doanh còn lớn; công nghệ và công cụ quản trị kinh doanh chậm đổi mới. Nhiều doanh nghiệp chưa áp dụng công nghệ điều hành hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin, dẫn đến chậm hoặc không phát hiện được các vấn đề rủi ro phát sinh trong kinh doanh.

Việc công bố thông tin còn mang tính hình thức, không đủ thông tin khách quan, tạo dư luận xã hội thiếu tích cực về tính minh bạch của doanh nghiệp nhà nước, nhất là trong các lĩnh vực độc quyền nhà nước hoặc do Nhà nước định giá, điều tiết giá hoặc các ngành cung cấp sản phẩm dịch vụ công thiết yếu.

Theo Chính phủ, ngoài nguyên nhân khách quan, những hạn chế nêu trên chủ yếu do vai trò, nhận thức, trách nhiệm của người đứng đầu một số doanh nghiệp nhà nước chưa cao, chưa quyết liệt; chưa có chế tài đủ mạnh trong việc xử lý trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước không hoàn thành, không triển khai thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước theo kế hoạch.

Mặt khác, nhiều doanh nghiệp nhà nước chưa chủ động triển khai sắp xếp lại, xử lý nhà, đất theo chính sách của Nhà nước, đến khi tiến hành cổ phần hóa mới bắt đầu thực hiện, nên ảnh hưởng đến tiến độ cổ phần hóa.

Cùng với đó, việc phối hợp giữa các cơ quan đại diện chủ sở hữu, chính quyền địa phương trong lập, phê duyệt phương án sắp xếp lại, xử lý nhà, đất theo Nghị định số 167 của Chính phủ chưa tốt, tiến độ phê duyệt còn rất chậm, nhất là các thành phố lớn như Hà Nội và TP. HCM.

Cùng chuyên mục
Tin khác