Giám đốc WB: ‘Tăng trưởng Việt Nam tốt hơn so với thế giới’
Lan Anh -
23/01/2020 07:51 (GMT+7)
"Việt Nam cần tiếp tục đẩy nhanh tốc độ cải cách, tạo sự linh hoạt nhanh nhạy trong thay đổi thể chế và chính sách để đáp ứng được thị trường trong tương lai", Giám đốc Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam Ousmane Dione nói.
Giám đốc Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam Ousmane Dione.
- Năm ngoái tại Diễn đàn cải cách ông đã đưa ra một số đề nghị cho Việt Nam. Vậy sau một năm trôi qua, ông thấy Việt Nam có những bước phát triển gì và còn những điểm gì chưa thực hiện được so với những đề nghị của ông?
Ông Ousmane Dione: Công bằng mà nói Việt Nam đã có nhiều tiến bộ trong một năm qua. Điều Việt Nam làm được rõ ràng là việc kiểm soát quyền lực đã tốt lên rất nhiều. Trong năm qua, chúng tôi làm việc chặt chẽ với Quốc hội để giúp đỡ họ tìm hiểu một số chuyến đi tham khảo kinh nghiệm của Úc, Mỹ trong việc xây dựng kế hoạch ngân sách, quản lí ngân sách chi tiêu.
Việt Nam năm qua cũng phát triển mạnh về chính phủ điện tử. Trong thời gian qua, văn phòng chính phủ đã làm được khối lượng công việc khổng lồ. Tôi xin chúc mừng văn phòng chính phủ đã công bố cổng dịch vụ công.
Các bộ, ban ngành bây giờ nên bắt đầu triển khai cổng thông tin điện tử, liên quan đến thủ tục cho người dân. Chúng ta có thể triển khai thí điểm dải ngân thông qua các thủ tục điện tử, so sánh các loại hình dải ngân bằng hình thức thu điện tử và hình thức giấy tờ truyền thống để lựa chọn ra phương pháp phù hợp nhất với mình.
Liên quan đến khu vực kinh tế tư nhân thì thực sự trong năm qua chưa có nhiều đột phá để phát triển mạnh và hiệu quả hơn. Doanh nghiệp tư nhân hiện nay phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên cần những chính sách công nghiệp làm thế nào để họ tạo ra những sản phẩm phát triển mạnh trong tương lai.
Chúng tôi cũng đã hỗ trợ với chính phủ Việt Nam trong việc cung cấp những chuyên gia có kiến thức về cải cách để hỗ trợ và thúc đẩy việc cải cách ở Việt Nam.
Giám đốc WB tại Việt Nam: "Điều Việt Nam làm được rõ ràng là việc kiểm soát quyền lực đã tốt lên rất nhiều".
- World Bank ca ngợi Việt Nam một năm qua đặc biệt liên quan đến xuất khẩu. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu năm nay chỉ còn bằng nửa trong năm trước. Đó là một tín hiệu không phải là quá tích cực?
Tôi nghĩ câu chuyện xuất khẩu là rất đáng ca ngợi nhưng vấn đề định hướng bước đi sắp tới của Việt Nam thế nào, Việt Nam sẽ đi nhanh hay chậm là quan trọng hơn.
Về xuất khẩu, rõ ràng số liệu cho thấy Việt Nam năm nay xuất khẩu chậm hơn năm ngoái, mặc dù chúng ta vẫn thấy cam kết đầu tư nước ngoài của Việt Nam rất lớn, khoảng 3 tỷ/tháng. Nguyên nhân có lẽ một phần do cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung.
Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ tăng 30% trong khi xuất khẩu sang các địa điểm khác ngoài nước Mỹ chỉ còn từ 2,5-3%. Nói vậy để thấy, Việt Nam đã định vị được trong cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung. Tuy nhiên, Việt Nam không nên quá phụ thuộc vào một hay vài thị trường. Một vấn đề khác nữa, Việt Nam hiện chưa đa dạng hoá thị trường xuất khẩu mặc dù chúng ta đã kí rất nhiều FTA.
Nhìn chung tăng trưởng của Việt Nam trong những năm tới vẫn tương đối cao. Chúng tôi dự báo tăng trưởng năm nay của Việt Nam khoảng 6,8% và năm 2020 khoảng 6,5%. Phần lớn do nhu cầu trong nước ngày càng gia tăng, chính sách tài khoá của chúng ta tốt và cơ bản là nền kinh tế tốt với lạm phát thấp.
Những điều đó cho thấy nền kinh tế Việt Nam có một sự chống chịu rất tốt và vẫn tạo được tăng trưởng cao.
Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều tồn tại. Một số yếu tố bên ngoài có thể ảnh hưởng là cuộc chiến thương mại sẽ tiếp diễn nữa hay không, một số yếu tố bên trong như chậm dải ngân. Không có nước nào như Việt Nam trong vòng 3 năm đã giảm được nợ 10%. Năm 2017, tỷ lệ nợ quốc gia của chúng ta khoảng 63,7%. Năm 2019 là 56%, đã giảm đi nhiều và chủ yếu là giảm từ đầu tư công. Có nghĩa là, chúng ta không có đầu tư thì sẽ làm giảm khả năng phát triển của đất nước trong tương lai.
Thử nhìn vào vấn đề điện, trong mấy năm vừa qua không có một dự án đầu tư lớn nào và đến bây giờ việc sử dụng điện đã đến mức đỉnh điểm. Chúng ta cũng không có những dự án lớn về đường bộ, đường giao thông. Nếu nói về ODA thì chúng ta đã dải ngân chậm nhất trong vòng hai mươi năm qua. Những việc đó sẽ tạo ra nhiều vấn đề trong tương lai liên quan đến cơ sở hạ tầng.
Việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước cũng chậm trễ. Năm 2017, chúng ta cổ phần hoá công ty bia Sài Gòn, từ đó đến nay không có thêm việc cổ phần hoá lớn nào nữa. Năm 2021 diễn ra sự kiện Đại hội Đảng, như vậy xu hướng mà chúng ta đi xuống trong quá trình cổ phần hoá hoàn toàn là rủi ro, tạo ra định hướng khó lường về cải cách.
Làm thế nào để xây dựng được thể chế linh hoạt, đáp ứng nhu cầu thời đại, có tính đổi mới sáng tạo và phù hợp với mức độ, trình độ phát triển mới của Việt Nam cũng là vấn đề.
Bây giờ làm việc gì cũng phải có văn bản, giấy tờ. Rất dễ nhận thấy việc chia sẻ thông tin, dữ liệu điều phối giữa các cơ quan là rất khó, chẳng hạn việc kết nối giữa các tỉnh có khi còn dễ dàng hơn việc kết nối giữa hai cơ quan trong cùng Hà Nội.
Tất cả những điều tôi nêu trên đây là thách thức trong tương lai.
- Ông vừa đề cập đến một số chuyện chúng ta dải ngân đầu tư công chậm, không có các dự án hạ tầng lớn, chỉ số tiêu thụ điện năng cũng thấp so với năm trước. Vậy vì sao Ngân hàng thế giới vẫn khen ngợi Việt Nam tăng trưởng cao, triển vọng của Việt Nam lớn thế?
Chúng ta thấy giá trị của FTA như một đường hình cung. Việt Nam đang ở điểm thấp nhất, chủ yếu là sản xuất sản phẩm số lượng lớn. Chúng ta chưa đạt đến phần cao là nghiên cứu sáng tạo phát triển sản phẩm hoặc phần cuối cùng là tạo ra những sản phẩm có giá trị chất lượng cao.
Như tôi có những dự báo Việt Nam tốt vì mức tăng trưởng của Việt Nam vẫn tốt so với mức tăng trưởng của thế giới, so với các nước phát triển và các nước xung quanh thì tăng trưởng của họ gần như dứoi 5%. Chúng ta cứ hay nói đến các nước như Philippines, Indonesia thì mức phát triển của họ chưa bằng Việt Nam.
Chính sách đầu tư nước ngoài của Việt Nam từ trước đến nay là chính sách được thiết kế với một nước có nền tảng thấp, ở mức tạo công ăn việc làm và xoá đói giảm nghèo tốt. Tuy nhiên, liệu chính sách này còn phù hợp với tương lai nữa hay không thì cần phải nghiên cứu thêm. Trong tương lai rõ ràng sẽ phụ thuộc vào số lượng và chuyển dần lên chất lượng hơn.
Bên cạnh đó, Việt Nam sẽ phải tham gia vào phần đổi mới sáng tạo nhiều hơn nữa. Hiện nay, Việt Nam có khoảng 600 viện nghiên cứu nhưng tôi có cảm giác chưa tạo ra được sự thay đổi nhiều bởi nó hoạt động còn quá manh mún.
Việt Nam vẫn là một nhà máy sản xuất sản phẩm cho thế giới như may mặc, đi đâu trên thế giới cũng đều thấy hàng may mặc của Việt Nam nhưng sản phẩm may mặc có chất lượng cao hơn thì chưa chắc đã là của chúng ta.
Xu hướng các FTA hiện nay bắt đầu giảm dần vào những dự án đầu tư mới, chuyển dần sang việc mua bán sáp nhập, tức là các công ty nước ngoài có thể mua lại các công ty Việt Nam. Đó cũng là xu hướng tốt khi họ nhìn thấy xu hướng tiềm năng và muốn tham gia sản xuất thị trường trong nước.
Vì vậy, chúng ta cần phải có những chính sách FTA cũng như chính sách về công nghiệp phù hợp. Nếu không có những chính sách phù hợp này thì tương lai vẫn tiếp diễn tình trạng bẫy thu nhập trung bình. Tuy nhiên, tôi hoàn toàn tin tưởng Việt Nam có thể làm được việc này.
Điều mà tôi lo ngại hơn là tốc độ cải cách của Việt Nam. Chúng ta chưa tạo ra được sự thay đổi linh hoạt, nhanh nhạy trong chính sách và sự thay đổi trong thể chế để đáp ứng được thị trường trong tương lai.
Đây là thời điểm rất tốt để chúng ta chuẩn bị cho kế hoạch 5 năm và chiến lược 10 năm tới và cũng là cơ hội để chúng ta định hướng chính sách phù hợp. Điều này phụ thuộc vào quyết tâm, tầm nhìn của lãnh đạo có dám làm và thay đổi hay không thôi?! Tôi nói vậy bởi vì, những thách thức cải cách mạnh mẽ bao giờ cũng gặp phải sự chống đối nên chúng ta hãy kéo được những người hoài nghi, chống đối đi theo cùng chúng ta.
- Một số nhà kinh tế nói rằng Việt Nam phải tăng trưởng thêm 2,3% tức là tăng trưởng khoảng 10 điểm phần trăm là bình thường. Nếu như Việt Nam tiến hành cải cách theo hướng thị trường, ví dụ vốn ở DNNN hiệu quả hơn, nguồn lực đất đai thị trường hóa hơn thì ông có cho rằng Việt Nam cần một không gian rộng hơn để tiếp tục phát triển?
Việt Nam có tiềm năng để tiếp tục cải cách. Chẳng hạn về nguồn lực đất đai, Việt Nam có thể tiếp tục cải cách trong việc định giá đất, quyền sử dụng đất, thuế đất. Việt Nam cũng chưa để ý đến yếu tố môi trường trong phát triển Việt Nam như ô nhiễm đất, nước và không khí.
Gần đây, chúng tôi đã có một nghiên cứu, ô nhiễm nước và không khí ở Hà Nội tăng cao. Việt Nam cũng chưa áp dụng được công nghệ mới cho tương lai. Mặc dù lượng khách đến Việt Nam đông nhưng dường như doanh thu lợi nhuận tạo ra chưa được cao lắm trong khi chúng ta hoàn toàn có thể làm thế nào để họ đến tiêu thụ nhiều hơn và vẫn giữ được môi trường tốt cho Việt Nam.
Tôi còn nhớ cách đây mấy năm khi đến Đồng bằng sông Cửu Long rất sạch đẹp nhưng mấy năm gần đây bắt đầu có những chất thải rắn, điều này ảnh hưởng đến phát triển môi trường và du lịch.
Còn một vấn đề chúng ta vẫn chưa giải quyết được là thủ tục phá sản. Đó là một trong những lĩnh vực cải cách luôn bị đánh giá thấp trong chỉ số kinh doanh ở Việt Nam. Việt Nam có mức độ dự trữ bây giờ tương đối lớn, khoảng 7,5 tỷ USD. Hay việc thanh toán tiền đi lại cũng rất chậm, điều này làm ảnh hưởng đến tính cạnh tranh và hiệu quả của công ty làm việc ở Việt Nam.
Ở Việt Nam có một điểm thuận lợi là chúng ta đang đi theo cả hai hướng: Tiếp tục cải cách hướng cũ có hiệu quả và vẫn còn chỗ cho việc cải cách mới để tạo ra tăng trưởng. Tuy nhiên, phải đẩy tốc độ cải cách nhanh hơn bởi vì nếu chúng ta không làm gì ngay hôm nay thì ngày mai sẽ có người khác chiếm chỗ.
- Mới đây Moody’s đã hạ chỉ số tín nhiệm xếp hạng Việt Nam. Ông có thể chia sẻ quan điểm liệu điều này có ảnh hưởng như thế nào đến kế hoạch hoạt động vay của Việt Nam trong thời gian tới?
Thực ra, việc Moody’s hạ độ tín nhiệm của Việt Nam không phải vì Việt Nam thiếu tiền để trả mà là việc những thủ tục của Việt Nam quá phức tạp và rắc rối, trong nhiều trường hợp gây ra ảnh hưởng tiêu cực một cách không cần thiết.
Vì vậy, một số điểm chúng ta cần khắc phục:
Thứ nhất, các quy định về luật pháp của Việt Nam cần được hài hoà thống nhất với nhau. Hiện đang có tình trạng có nhiều cơ quan cùng làm một việc nhưng có việc thì chẳng có cơ quan nào làm.
Thứ hai, làm thế nào để các quy trình, trình tự thủ tục hành chính của chúng ta đơn giản hóa và hiệu quả hơn.
Chúng ta đã làm rất tốt những dịch vụ công gần đây như Chính phủ Việt Nam vừa mới công bố mở cổng dịch vụ công trực tuyến.
Cần phải nói thêm một điểm nữa là trách nhiệm giải trình, quyền lực cửa con người trong hệ thống. Cứ việc gì chúng ta cũng đều trình lên Thủ tướng giải quyết. Thủ tướng không thể làm được hết mọi việc mà cần một cấp để giải quyết những việc đó. Nếu cần có thể báo cáo lên cấp trên chứ không phải xin ý kiến như hiện nay.
Việc Moody’s hạ tín nhiệm là một hồi chuông cảnh tính cho thấy chúng ta cần phải hành động, thay đổi, có bước phát triển mới phù hợp hơn. Ngân hàng Thế giới chúng tôi luôn sẵn sàng hỗ trợ đặc biệt các yếu tố liên quan đến việc làm thế nào để hệ thống minh bạch, hiệu quả hơn, áp dụng khoa học công nghệ tốt hơn.
(VNF) - TS Nguyễn Đình Cung cho rằng, hiện còn quá nhiều đầu mối doanh nghiệp nhà nước (DNNN), vai trò chưa tương xứng, nói là chủ đạo nhưng chưa cho nhóm này phát triển. Do đó, ông Cung kiến nghị tái cơ cấu, chỉ cần dưới 100 nhưng quy mô tăng gấp 10 – 15 lần.
(VNF) - Việt Nam đang hoàn thiện thể chế để thúc đẩy thương mại hóa tài sản trí tuệ, coi tri thức và công nghệ là động lực tăng trưởng mới và bền vững. Để làm điều đó, việc tạo hành lang pháp lý rõ ràng sẽ mở 'đường băng' đưa kết quả nghiên cứu và sáng tạo từ phòng thí nghiệm ra thị trường, thúc đẩy nền kinh tế tri thức.
(VNF) - Theo các chuyên gia, hiện tại là giai đoạn "vàng" để doanh nghiệp Việt tận dụng cơ hội từ Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA). Tuy nhiên, các quy định mới của EU về phát triển bền vững và bảo hộ thương mại đòi hỏi doanh nghiệp phải chủ động thích ứng, nếu không muốn bỏ lỡ lợi thế mà EVFTA mang lại.
(VNF) - Cơ chế Nhà nước đặt hàng doanh nghiệp tham gia vào các dự án lớn không chỉ mở ra cơ hội lớn cho Việt Nam trong việc xây dựng xây dựng đội ngũ doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh mà còn mở ra cơ hội để nâng cao năng lực nội sinh cho nền kinh tế.
(VNF) - Theo Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Mạnh Hùng, trí tuệ nhân tạo (AI) phải đi trong một “hành lang hẹp” giữa hỗn loạn và kiểm soát, giữa tự do và nỗi sợ hãi. Nhiệm vụ của chúng ta là định hướng bằng sự khôn ngoan và trách nhiệm. Một nhà nước mạnh phải bảo vệ những giá trị nhân văn, trong khi một xã hội cởi mở phải khuyến khích sáng tạo và đối thoại.
(VNF) - TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương
(CIEM) cho rằng, nếu không có đột phá mạnh mẽ về thể chế và nâng cao năng suất, chất lượng,
nền kinh tế Việt Nam sẽ khó thoát khỏi vòng luẩn quẩn tăng trưởng theo chiều rộng.
(VNF) - Bà Đào Thị Thu Thủy, Giám đốc chương trình MBA, Chánh văn phòng Tổ chức Khoa học và Chuyên gia Việt Nam toàn cầu (AVSE Global) khẳng định, khu vực kinh tế tư nhân đóng vai trò trung tâm trong hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng hai con số mà Việt Nam hướng tới trong những thập niên tới, nhờ vàosức mạnh của động lực nội sinh, tính linh hoạt cao, khả năng tạo việc làm lớn
và sức cạnh tranh ngày càng gia tăng.
(VNF) - TS. Nguyễn Bá Hùng, Chuyên gia kinh tế trưởng ADB tại Việt Nam, cho rằng Việt Nam cần thay đổi mô hình tăng trưởng, bởi mô hình dựa nhiều vào mở rộng nguồn lực đã bộc lộ hạn chế. Để duy trì tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, nền kinh tế cần chuyển dịch sang hướng chú trọng hiệu quả và đổi mới sáng tạo.
(VNF) - Trong bối cảnh pháp luật còn chồng chéo, việc phân định rủi ro kinh doanh
thông thường và hành vi vi phạm hình sự không hề dễ dàng. Điều này đặt ra yêu
cầu cấp thiết phải hoàn thiện thể chế để bảo vệ doanh nghiệp, doanh nhân, đồng
thời giữ nghiêm kỷ cương pháp luật. Tạp chí Đầu tư Tài chính đã có cuộc trao
đổi với luật sư Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch SB Law, về vấn đề này.
(VNF) - Theo nữ tỷ phú Nguyễn Thị Phương Thảo, chuyện "giải cứu" HoSE cho thấy khu vực tư nhân hoàn toàn có đủ năng lực thúc đẩy các lĩnh vực công nghệ then chốt.
(VNF) - Từ câu chuyện của VEAM, có thể thấy Nhà nước cần đứng ra tạo điều kiện hơn nữa cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển ngành ô tô - xe máy Việt Nam.
(VNF) - Theo ông Hồ Đức Thắng - Viện trưởng Viện Công nghệ số và Chuyển đổi số Quốc gia, việc đưa AI vào giảng dạy ngay từ bậc tiểu học là bước đi táo bạo, song để “đi nhanh mà chắc”, cần một lộ trình thận trọng, khả thi và đặt an toàn cũng như chất lượng giáo dục lên hàng đầu.
(VNF) - Bà Natalie Nguyễn – Chuyên gia hơn 20 năm kinh nghiệm trong ngành bán dẫn quốc tế cho rằng Việt Nam đang đứng trước một “cửa sổ cơ hội” hiếm hoi để chen chân vào bản đồ bán dẫn thế giới, nếu có chiến lược đúng và hành động kịp thời.
(VNF) - Ông Chu Thúc Đạt - Phó Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo nhận định: "Đổi mới sáng tạo không thể chỉ dừng lại ở nghiên cứu hàn lâm mà phải được thương mại hóa, tạo ra giá trị thực tiễn. Chuyển giao công nghệ trở thành chiếc cầu nối giúp đưa ý tưởng và kết quả nghiên cứu ra thị trường, giải quyết các bài toán của quốc gia, ngành và địa phương, đồng thời mở ra dòng chảy giá trị mới cho doanh nghiệp".
(VNF) - Theo TS. Lương Minh Huân - Viện trưởng Viện Phát triển doanh nghiệp VCCI, để xây dựng nền công nghiệp tự chủ và hùng cường, doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động nâng cao năng lực, đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, hiệp hội và các tổ chức hỗ trợ trong việc mở rộng khả năng tham gia vào chuỗi cung ứng nội địa và toàn cầu.
(VNF) - AI và công nghệ được xem là “ánh sáng” của thời đại mới, mở ra cơ hội giúp Việt Nam bứt phá. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, song hành với khát vọng đi nhanh, đất nước phải bảo đảm an sinh xã hội, đầu tư cho con người và thu hẹp khoảng cách công nghệ, nếu không sẽ tạo ra những bất bình đẳng mới.
(VNF) - Theo Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Nguyễn Mạnh Hùng, chiến lược phát triển AI của Việt Nam là “vừa nhanh, vừa an toàn, vừa nhân văn”. AI phải phục vụ con người, là trợ lý cho con người, không thay thế tư duy, giá trị và trách nhiệm của con người với tầm nhìn tầm nhìn AI sẽ trở thành “hạ tầng trí tuệ” của quốc gia.
(VNF) - Đại tướng Lương Tam Quang - Bộ trưởng Bộ Công an cảnh báo: Trí tuệ nhân tạo có thể bị lợi dụng vào các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, gây bất ổn xã hội, hoặc dẫn tới các dạng chiến tranh phi truyền thống trong không gian mạng, thông tin và dư luận
(VNF) - Theo ông Nguyễn Văn Hậu - CEO NetVietTV, Chủ tịch VSBC, AI đang bùng nổ toàn cầu, nhưng tại Việt Nam, tỷ lệ người dùng AI đúng cách chưa tới 5%. Nguyên nhân không nằm ở “prompt chưa hay” mà ở chỗ chưa có tư duy hệ thống, thiếu chiến lược dữ liệu và dễ sa vào trào lưu FOMO.
(VNF) - Các chaebol Hàn Quốc sử dụng đòn bẩy tài chính rất cao trong thời kỳ phát triển công nghiệp và cao hơn đáng kể Vingroup của Việt Nam hiện nay - vốn cũng đang dồn lực phát triển mảng công nghiệp.
(VNF) - Theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, việc đánh giá khu vực kinh tế tư nhân hiện nay còn nhiều bất cập khi “gộp chung” doanh nghiệp lớn, nhỏ và hộ kinh doanh để tính toán, từ đó đưa ra kết luận năng suất và hiệu quả thấp.
(VNF) - GS.TS Lê Anh Tuấn – Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội nhấn mạnh, để phát triển công nghệ chiến lược và thương mại hóa kết quả nghiên cứu, Việt Nam cần một mô hình hợp tác chặt chẽ giữa nhà nước, viện – trường và doanh nghiệp, trong đó đào tạo nhân lực chất lượng cao là nền tảng then chốt, tạo ra đội ngũ đủ năng lực triển khai chính sách, vận hành công nghệ, và đưa sản phẩm nghiên cứu ra thị trường.
(VNF) - Theo các chuyên gia, Việt Nam cần xây dựng một “sandbox” đủ lớn và thể chế tài chính chuẩn quốc tế để thu hút nhà đầu tư chiến lược, củng cố năng lực pháp lý và thúc đẩy hội nhập tài chính toàn cầu.
(VNF) - 80 năm qua, nông nghiệp Việt Nam đã chứng minh chân lý “phi nông bất ổn” khi vừa là trụ đỡ kinh tế, vừa tạo nên những bước ngoặt đưa kinh tế Việt Nam vươn ra thế giới.
(VNF) - TS Nguyễn Đình Cung cho rằng, hiện còn quá nhiều đầu mối doanh nghiệp nhà nước (DNNN), vai trò chưa tương xứng, nói là chủ đạo nhưng chưa cho nhóm này phát triển. Do đó, ông Cung kiến nghị tái cơ cấu, chỉ cần dưới 100 nhưng quy mô tăng gấp 10 – 15 lần.
(VNF) - Dự án Khu phức hợp công nghiệp – đô thị – dịch vụ Tiên Tiến (Mường Central) do Công ty cổ phần Thương mại Dạ Hợp thực hiện, với quy mô diện tích lên tới 82ha.