Góc nhìn: Điều chỉnh giới hạn sở hữu ngân hàng có trị được ‘bệnh thao túng’?
Thanh Long -
06/12/2023 11:57 (GMT+7)
(VNF) - Sau sự kiện bà Trương Mỹ Lan “rút ruột” cả triệu tỷ đồng thông qua Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB), vấn đề chống thao túng ngân hàng “nóng” lên trên diễn đàn Quốc hội…
Điều chỉnh giới hạn sở hữu ngân hàng có trị được ‘bệnh thao túng’?
Băn khoăn việc giảm giới hạn sở hữu ngân hàng
Tại kỳ họp Quốc hội vừa qua, một trong hai dự thảo luật quan trọng đã được dời lịch thông qua sang kỳ họp tiếp theo, đó là dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi).
Sau sự kiện bà Trương Mỹ Lan “rút ruột” cả triệu tỷ đồng thông qua Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB), vấn đề chống thao túng ngân hàng “nóng” lên trên diễn đàn Quốc hội. Dự thảo Luật có đưa ra 2 điều chỉnh lớn nhằm giảm thiểu mức độ thao túng ngân hàng, bao gồm: Giảm giới hạn cấp tín dụng đối với một/một nhóm khách hàng có liên quan; và giảm giới hạn tỷ lệ sở hữu của cá nhân, tổ chức tại ngân hàng.
Cụ thể, dự thảo Luật quy định lộ trình giảm dần giới hạn cấp tín dụng xuống 10% vốn tự có của ngân hàng đối với một khách hàng (hiện đang ở mức 15%) và 15% vốn tự có đối với khách hàng và người có liên quan (hiện đang ở mức 25%) trong 5 năm.
Bên cạnh đó, dự thảo Luật quy định một cổ đông là tổ chức không được sở hữu vượt quá 10% vốn điều lệ của ngân hàng (hiện đang ở mức 15%). Đồng thời, cổ đông và người có liên quan của cổ đông đó không được sở hữu cổ phần vượt quá 15% vốn điều lệ của ngân hàng (hiện đang ở mức 20%). Một điểm cũng cần lưu ý là các điều chỉnh trên không áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài.
Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Việt Nga đồng tình với việc giảm giới hạn cấp tín dụng. Theo đại biểu, thời gian qua, trong các tổ chức tín dụng có hiện tượng tập trung cho vay quá lớn vào một số ít khách hàng, hoặc cũng có hiện tượng cho vay doanh nghiệp “sân sau” hoặc mua trái phiếu doanh nghiệp “sân sau”. Do vậy, đại biểu nhất trí cần sửa đổi quy định về giới hạn cấp tín dụng, giảm mức dư nợ tín dụng tối đa đối với một khách hàng và người có liên quan để hạn chế tập trung vốn tín dụng cho một khách hàng hay nhóm khách hàng lớn theo lộ trình cụ thể và giao Chính phủ cụ thể hóa lộ trình này.
Về vấn đề này, đại biểu Quốc hội Phạm Văn Hòa cho rằng vấn đề quan trọng, cốt lõi hiện nay là các ngân hàng phải giám sát, quan tâm nhiều hơn đến những trường hợp “ông chủ” ngân hàng là doanh nghiệp lớn. Nhấn mạnh “trong dư luận xã hội có suy nghĩ người dân và doanh nghiệp vay rất khó khăn nhưng cổ đông và các “ông chủ” ngân hàng vay lại rất dễ”, đại biểu Phạm Văn Hòa đề nghị, các ngân hàng phải quan tâm và có các biện pháp để kịp thời phòng ngừa, ngăn chặn hiện tượng tập trung cho vay với một nhóm khách hàng.
Trong khi đó, đại biểu Trịnh Xuân An cho rằng, thực tế vụ việc của SCB đang tạo nên những rủi ro rất lớn cho hệ thống là sở hữu chéo, chi phối và thao túng tổ chức tín dụng cần phải tiếp tục được nhận diện để xử lý, loại trừ. Theo đại biểu Trịnh Xuân An, sở hữu chéo, chi phối và thao túng trong là các thủ thuật rất tinh vi và thường là vô hình. Tuy nhiên với đối tượng vô hình và thường xuyên biến đổi này, chúng ta lại dùng các công cụ như Luật đang thiết kế (giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần, giảm hạn mức cấp tín dụng và mở rộng đối tượng không được đảm nhiệm chức vụ) sẽ khó mang lại hiệu quả như mong muốn.
Theo đại biểu Trịnh Xuân An cốt lõi của hệ thống ngân hàng Việt Nam nằm ở vấn đề quản trị. Để chống sở hữu chéo, thao túng, chi phối trong hệ thống ngân hàng thì yếu tố hàng đầu là phải xác định được cá nhân/tổ chức là nào chủ sở hữu thực sự của ngân hàng. Do vậy, dự thảo Luật cần xây dựng khuôn khổ pháp lý nhằm xác định được cá nhân/tổ chức nắm quyền chi phối, ảnh hưởng đến việc ra quyết định trong hoạt động của ngân hàng.
Để làm được việc này, đại biểu Trịnh Xuân An đề nghị, dự thảo Luật phải quy định cụ thể 2 vấn đề. Một là, minh bạch thông tin của tất cả các cá nhân, tổ chức là cổ đông của ngân hàng thương mại thay vì giảm tỷ lệ sở hữu; xác định nghĩa vụ công bố thông tin đối với cổ đông (cả tổ chức và cá nhân) và nhóm người có liên quan sở hữu cổ phần của tổ chức tín dụng trên một mức cụ thể.
Hai là, kiểm soát được dòng tiền, nguồn tiền góp vốn thông qua cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt và áp dụng kiểm soát dữ liệu cá nhân. Đại biểu cũng đề nghị, cần cân nhắc giữ quy định như hiện hành về tỷ lệ sở hữu cổ phần tại Điều 63 và giới hạn cấp tín dụng ở Điều 136 bởi việc xác định lộ trình như đề xuất của Chính phủ chưa thuyết phục và cần được đánh giá thêm.
Đại biểu Quốc hội Trịnh Xuân An
Giải trình vấn đề được các đại biểu đưa ra, Thống đốc Ngân hàng Nhà Nhà nước Nguyễn Thị Hồng cho rằng, nếu chỉ có quy định giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần và giới hạn cấp tín dụng thì sẽ không thể xử lý triệt để vấn đề sở hữu chéo trong các tổ chức tín dụng. Các quy định này được đưa ra tại dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) chủ yếu nhằm tạo căn cứ để xử lý các cá nhân, tổ chức, ngân hàng thương mại vi phạm. Theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, vấn đề quan trọng nhất là tổ chức thực hiện, nên cần sự phối hợp chặt chẽ giữa ngành ngân hàng và các Bộ, ngành, cơ quan hữu quan, chính quyền địa phương để ngăn chặn tình trạng đứng tên sở hữu hộ cổ phần được đại biểu Quốc hội đưa ra.
Về phía Ngân hàng Nhà nước, thời gian tới sẽ tiếp tục tăng cường công tác thanh tra, giám sát, nhất là củng cố bộ phận kiểm soát, kiểm toán của từng tổ chức tín dụng. Chính bộ phận kiểm soát, kiểm toán nội bộ là người giám sát tối cao đối với hoạt động của Hội đồng quản trị và Ban điều hành ở mỗi tổ chức tín dụng.
Nhìn rộng hơn
Việc “đứng tên hộ” không phải là điều gì xạ lạ trên thế giới, nhất là khi thị trường tài chính Việt Nam xếp vào hàng “sinh sau đẻ muộn”, thường được gọi là “nominee investor”. Định nghĩa của “nominee investor” khá rộng, bao gồm cả tích cực và tiêu cực, nhưng có bao hàm việc các cổ đông “cầm hộ” cổ phần của chủ doanh nghiệp. Ở khía cạnh tiêu cực, việc “cầm hộ” này có thể gây ra các vấn nạn như rửa tiền, thao túng giá cổ phiếu, mua bán cổ phiếu theo thông tin nội bộ mà không phải công khai (giao dịch nội gián), trốn thuế…
Nhìn chung, mục đích chính của việc “đứng tên hộ” là ẩn danh chủ sở hữu thực sự khỏi nghĩa vụ công bố thông tin và đảm bảo tính riêng tư. Người “đứng tên hộ” có thể là bất kỳ cá nhân nào, nhưng thường là thành viên gia đình, bạn bè hoặc các chuyên gia như kế toán hoặc luật sư. Giữa chủ sở hữu thực sự và người “đứng tên hộ” có thể có hoặc không có thỏa thuận riêng và nếu có thì thoả thuận này thường được giữ bảo mật, trừ khi cơ quan quản lý nhà nước yêu cầu cung cấp. Tài liệu này cung cấp manh mối để truy tìm danh tính của chủ sở hữu thực sự, đồng thời giúp người “đứng tên hộ” giảm/tránh trách nhiệm nếu vi phạm quy định pháp luật.
Trên thực tế, việc “đứng tên hộ” là nhu cầu không những có thật mà còn là nhu cầu lớn của các chủ doanh nghiệp. Không chỉ thông qua các vụ án có yếu tố “đứng tên hộ” như Trương Mỹ Lan, Trịnh Văn Quyết… mà nhiều chủ doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, nhất là tại các doanh nghiệp niêm yết, được cho là vẫn thường xuyên sử dụng các hình thức “đứng tên hộ”. Khi thoát khỏi nghĩa vụ công bố thông tin, chủ doanh nghiệp sẽ tham gia sâu hơn vào hoạt động mua - bán trên thị trường chứng khoán, qua đó tạo thanh khoản và dẫn dắt thị trường; nhưng ở chiều ngược lại, điều này lại vi phạm các tiêu chuẩn về minh bạch thông tin và tiềm ẩn nguy cơ thiếu công bằng trong “cuộc chơi chung” trên thị trường chứng khoán.
Mặt khác, việc “đứng tên hộ” cũng giúp các nhà đầu tư giấu danh tính trong các thương vụ thâu tóm doanh nghiệp hoặc chủ động chuyển giao quyền sở hữu doanh nghiệp một cách “êm xuôi”, ít ảnh hưởng đến tâm lý các nhà đầu tư khác. Đây là một nhu cầu chính đáng, nếu không bị lạm dụng (chẳng hạn như chủ doanh nghiệp tháo chạy trước khi doanh nghiệp sụp đổ).
Ngoài ra, việc “đứng tên hộ” cũng xảy ra ở các nhà đầu tư lớn không phải chủ doanh nghiệp mà họ mua cổ phần, đơn giản vì họ muốn giữ sự riêng tư trong hoạt động đầu tư thuần tuý của mình.
Việc “đứng tên hộ” là nhu cầu không những có thật mà còn là nhu cầu lớn của các chủ doanh nghiệp
Chính vì mục đích của việc “đứng tên hộ” rất rộng, bao gồm cả nhu cầu chính đáng và bất chính, nên đa số các quốc gia hiện nay không cấm hoạt động này, bởi lệnh cấm chung có thể gây rối loạn thị trường nghiêm trọng. Cũng chính vì thế mà theo đánh giá của một đơn vị nghiên cứu độc lập, đây là “một điểm yếu dai dẳng và liên tục trong vấn đề minh bạch”, dù rằng các quốc gia đa phần đều có các luật riêng về phòng chống rửa tiền và tội phạm kinh tế.
Mấu chốt để hạn chế việc sử dụng các tài khoản “đứng tên hộ” để hoạt động tội phạm như thao túng, rửa tiền, trốn thuế… quan trọng nhất vẫn là xác định chủ sở hữu cuối cùng của doanh nghiệp.
Trên thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng, việc nhận dạng nhà đầu tư đóng một vai trò quan trọng trong việc duy trì tính toàn vẹn và hiệu quả của thị trường cũng như bảo vệ nhà đầu tư. Chừng nào chủ sở hữu cuối cùng (hay rộng hơn là người hưởng lợi cuối cùng) không được làm rõ thì các yêu cầu trên không được đáp ứng. Do đó, việc nhận dạng nhà đầu tư cần được các cơ quan quản lý nhà nước chú ý và thực hiện quyết liệt hơn nữa, đặc biệt trong việc xây dựng hệ thống thông tin có khả năng tập hợp được các manh mối về chủ sở hữu cuối cùng (hay người hưởng lợi cuối cùng) để giám sát kỹ khi cần. Điều này đòi hỏi sự chuẩn hoá trong dữ liệu (do đó cần có sự phối hợp giữa các bộ ngành, chẳng hạn như Bộ Tài chính - Ngân hàng Nhà nước - Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Bộ Công an) và ứng dụng công nghệ vào việc phát hiện manh mối về chủ sở hữu cuối cùng, bên cạnh việc điều tra “thủ công” khi cần.
Ngoài ra, việc tăng cường tuyên truyền pháp luật cũng cần được đẩy mạnh, bởi qua các vụ án liên quan Trịnh Văn Quyết, Trương Mỹ Lan…, rất nhiều người “đứng tên hộ” không thực sự nắm rõ về khả năng tiếp tay cho hoạt động phạm tội. Nếu những người này hiểu rõ hơn về lợi/hại trong việc “đứng tên hộ”, có lẽ nhiều người sẽ lựa chọn không “đứng tên hộ”.
Trở lại với băn khoăn về việc giảm giới hạn sở hữu ngân hàng, nếu không giải quyết được vấn đề “đứng tên hộ” thì việc giảm giới hạn sở hữu ngân hàng cũng không có nhiều ý nghĩa, có thể buộc giới chủ ngân hàng thay vì “đứng ra ngoài sáng” thì lại “đứng vào trong tối” nhiều hơn. Cùng với đó, ngân hàng cũng gặp khó khăn hơn trong việc thu hút thêm nguồn vốn từ các nhà đầu tư lớn trong nước.
(VNF) - Ông Nguyễn Hồ Ngọc - Giám đốc đào tạo ATC Academy cho rằng, "mốc 500 triệu hiện nay chỉ thực sự phù hợp với các ngành có biên lợi nhuận rất cao. Nếu chỉ nhìn vào mức doanh thu mà không nhìn vào tỷ suất lợi nhuận, chính sách sẽ nặng tay với nhóm biên lợi nhuận thấp và nhẹ tay với nhóm biên lợi nhuận cao".
(VNF) - TS Nguyễn Đình Cung cho rằng, hiện còn quá nhiều đầu mối doanh nghiệp nhà nước (DNNN), vai trò chưa tương xứng, nói là chủ đạo nhưng chưa cho nhóm này phát triển. Do đó, ông Cung kiến nghị tái cơ cấu, chỉ cần dưới 100 nhưng quy mô tăng gấp 10 – 15 lần.
(VNF) - Kỳ họp thứ 10 - kỳ họp cuối cùng của Quốc hội khóa XV chính thức được khai mạc từ cuối tháng 10. Đây là kỳ họp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vừa là bước tổng kết một nhiệm kỳ nhiều đổi mới, dân chủ, trách nhiệm và hiệu quả, vừa là sự chuẩn bị cho chặng đường của nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI với yêu cầu toàn diện và sâu sắc hơn.
(VNF) - Quá trình M&A trong lĩnh vực giáo dục không chỉ là vấn đề tài chính mà còn đòi hỏi sự nhạy bén trong quản trị văn hóa và vận hành. Đây là bài học mà ông Punendu Sharma, Giám đốc đầu tư (CIO) của EQuest Education Group, rút ra sau nhiều năm tham gia các thương vụ M&A tại Việt Nam.
(VNF) - Quỹ đất xanh tại các thành phố lớn đang dần thu hẹp, đặt ra thách thức với các cơ sở giáo dục trong việc xây dựng môi trường học tập lành mạnh. Tạp chí Đầu tư Tài chính - VietnamFinance đã có cuộc trò chuyện với bà Lê Nguyễn Trung Nguyên – Tổng giám đốc Hệ thống Giáo dục Victoria School về cách tiếp cận mô hình xanh, các cân nhắc về chi phí và vận hành, cũng như những khó khăn thực tế khi áp dụng tại môi trường đô thị Việt Nam.
(VNF) - Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIV đặt mục tiêu tăng trưởng GDP bình quân 10%/năm giai đoạn 2026–2030 – một tham vọng rất lớn trong bối cảnh mô hình tăng trưởng dựa vào lao động giá rẻ và FDI đã cạn dư địa. Các chuyên gia nhấn mạnh, muốn đạt được mục tiêu này, Việt Nam phải chuyển sang tăng trưởng dựa trên việc tăng năng suất và đổi mới sáng tạo.
(VNF) - TS Nguyễn Minh Cường cho rằng khi bàn về việc xây dựng trung tâm tài chính, cần đặt vấn đề trong bối cảnh: Liệu đây có phải là bước phát triển tiếp theo sau giai đoạn tự do hóa thương mại? Trung tâm tài chính có thể trở thành xuất phát điểm và động lực để thúc đẩy quá trình tự do hóa tài chính hay không?
(VNF) - Việt Nam đang hoàn thiện thể chế để thúc đẩy thương mại hóa tài sản trí tuệ, coi tri thức và công nghệ là động lực tăng trưởng mới và bền vững. Để làm điều đó, việc tạo hành lang pháp lý rõ ràng sẽ mở 'đường băng' đưa kết quả nghiên cứu và sáng tạo từ phòng thí nghiệm ra thị trường, thúc đẩy nền kinh tế tri thức.
(VNF) - Theo các chuyên gia, hiện tại là giai đoạn "vàng" để doanh nghiệp Việt tận dụng cơ hội từ Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA). Tuy nhiên, các quy định mới của EU về phát triển bền vững và bảo hộ thương mại đòi hỏi doanh nghiệp phải chủ động thích ứng, nếu không muốn bỏ lỡ lợi thế mà EVFTA mang lại.
(VNF) - Cơ chế Nhà nước đặt hàng doanh nghiệp tham gia vào các dự án lớn không chỉ mở ra cơ hội lớn cho Việt Nam trong việc xây dựng xây dựng đội ngũ doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh mà còn mở ra cơ hội để nâng cao năng lực nội sinh cho nền kinh tế.
(VNF) - Theo Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Mạnh Hùng, trí tuệ nhân tạo (AI) phải đi trong một “hành lang hẹp” giữa hỗn loạn và kiểm soát, giữa tự do và nỗi sợ hãi. Nhiệm vụ của chúng ta là định hướng bằng sự khôn ngoan và trách nhiệm. Một nhà nước mạnh phải bảo vệ những giá trị nhân văn, trong khi một xã hội cởi mở phải khuyến khích sáng tạo và đối thoại.
(VNF) - TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương
(CIEM) cho rằng, nếu không có đột phá mạnh mẽ về thể chế và nâng cao năng suất, chất lượng,
nền kinh tế Việt Nam sẽ khó thoát khỏi vòng luẩn quẩn tăng trưởng theo chiều rộng.
(VNF) - Bà Đào Thị Thu Thủy, Giám đốc chương trình MBA, Chánh văn phòng Tổ chức Khoa học và Chuyên gia Việt Nam toàn cầu (AVSE Global) khẳng định, khu vực kinh tế tư nhân đóng vai trò trung tâm trong hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng hai con số mà Việt Nam hướng tới trong những thập niên tới, nhờ vàosức mạnh của động lực nội sinh, tính linh hoạt cao, khả năng tạo việc làm lớn
và sức cạnh tranh ngày càng gia tăng.
(VNF) - TS. Nguyễn Bá Hùng, Chuyên gia kinh tế trưởng ADB tại Việt Nam, cho rằng Việt Nam cần thay đổi mô hình tăng trưởng, bởi mô hình dựa nhiều vào mở rộng nguồn lực đã bộc lộ hạn chế. Để duy trì tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, nền kinh tế cần chuyển dịch sang hướng chú trọng hiệu quả và đổi mới sáng tạo.
(VNF) - Trong bối cảnh pháp luật còn chồng chéo, việc phân định rủi ro kinh doanh
thông thường và hành vi vi phạm hình sự không hề dễ dàng. Điều này đặt ra yêu
cầu cấp thiết phải hoàn thiện thể chế để bảo vệ doanh nghiệp, doanh nhân, đồng
thời giữ nghiêm kỷ cương pháp luật. Tạp chí Đầu tư Tài chính đã có cuộc trao
đổi với luật sư Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch SB Law, về vấn đề này.
(VNF) - Theo nữ tỷ phú Nguyễn Thị Phương Thảo, chuyện "giải cứu" HoSE cho thấy khu vực tư nhân hoàn toàn có đủ năng lực thúc đẩy các lĩnh vực công nghệ then chốt.
(VNF) - Từ câu chuyện của VEAM, có thể thấy Nhà nước cần đứng ra tạo điều kiện hơn nữa cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển ngành ô tô - xe máy Việt Nam.
(VNF) - Theo ông Hồ Đức Thắng - Viện trưởng Viện Công nghệ số và Chuyển đổi số Quốc gia, việc đưa AI vào giảng dạy ngay từ bậc tiểu học là bước đi táo bạo, song để “đi nhanh mà chắc”, cần một lộ trình thận trọng, khả thi và đặt an toàn cũng như chất lượng giáo dục lên hàng đầu.
(VNF) - Bà Natalie Nguyễn – Chuyên gia hơn 20 năm kinh nghiệm trong ngành bán dẫn quốc tế cho rằng Việt Nam đang đứng trước một “cửa sổ cơ hội” hiếm hoi để chen chân vào bản đồ bán dẫn thế giới, nếu có chiến lược đúng và hành động kịp thời.
(VNF) - Ông Chu Thúc Đạt - Phó Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo nhận định: "Đổi mới sáng tạo không thể chỉ dừng lại ở nghiên cứu hàn lâm mà phải được thương mại hóa, tạo ra giá trị thực tiễn. Chuyển giao công nghệ trở thành chiếc cầu nối giúp đưa ý tưởng và kết quả nghiên cứu ra thị trường, giải quyết các bài toán của quốc gia, ngành và địa phương, đồng thời mở ra dòng chảy giá trị mới cho doanh nghiệp".
(VNF) - Theo TS. Lương Minh Huân - Viện trưởng Viện Phát triển doanh nghiệp VCCI, để xây dựng nền công nghiệp tự chủ và hùng cường, doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động nâng cao năng lực, đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, hiệp hội và các tổ chức hỗ trợ trong việc mở rộng khả năng tham gia vào chuỗi cung ứng nội địa và toàn cầu.
(VNF) - AI và công nghệ được xem là “ánh sáng” của thời đại mới, mở ra cơ hội giúp Việt Nam bứt phá. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, song hành với khát vọng đi nhanh, đất nước phải bảo đảm an sinh xã hội, đầu tư cho con người và thu hẹp khoảng cách công nghệ, nếu không sẽ tạo ra những bất bình đẳng mới.
(VNF) - Theo Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Nguyễn Mạnh Hùng, chiến lược phát triển AI của Việt Nam là “vừa nhanh, vừa an toàn, vừa nhân văn”. AI phải phục vụ con người, là trợ lý cho con người, không thay thế tư duy, giá trị và trách nhiệm của con người với tầm nhìn tầm nhìn AI sẽ trở thành “hạ tầng trí tuệ” của quốc gia.
(VNF) - Đại tướng Lương Tam Quang - Bộ trưởng Bộ Công an cảnh báo: Trí tuệ nhân tạo có thể bị lợi dụng vào các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, gây bất ổn xã hội, hoặc dẫn tới các dạng chiến tranh phi truyền thống trong không gian mạng, thông tin và dư luận
(VNF) - Ông Nguyễn Hồ Ngọc - Giám đốc đào tạo ATC Academy cho rằng, "mốc 500 triệu hiện nay chỉ thực sự phù hợp với các ngành có biên lợi nhuận rất cao. Nếu chỉ nhìn vào mức doanh thu mà không nhìn vào tỷ suất lợi nhuận, chính sách sẽ nặng tay với nhóm biên lợi nhuận thấp và nhẹ tay với nhóm biên lợi nhuận cao".
(VNF) - Hàng loạt dự án nhà ở xã hội tại Đà Nẵng như An Trung 2, Đại Địa Bảo, Ecohome Hòa Hiệp… đang được đẩy nhanh tiến độ, cung cấp hàng nghìn căn hộ cho thị trường, đáp ứng nhu cầu an cư của người thu nhập thấp.