Học thuật

Lãi suất là gì?

(VNF) - Cùng VietnamFinance tìm hiểu Lãi suất (rate of interest) là gì?

Lãi suất là gì?

Lãi suất (rate of interest) Giá phải trả cho việc sử dụng tiền và tín dụng .Có rất nhiều loại lãi suất.

Lãi suất (rate of interest) Giá phải trả cho việc sử dụng tiền và tín dụng .Có rất nhiều loại lãi suất. Ở Mỹ, mốc để xác định lãi suất dài hạn là giá của các trái phiếu kho bạc có thời hạn thanh toán 10 năm hoặc dài hơn. Lãi suất của quỹ dự trữ liên bang Mỹ là lãi suất mà hầu hết các định chế tài chính áp dụng đối với các định chế tài chính khác khi họ cung cấp các khoản vay nóng. Lãi suất của quỹ Dự trữ liên bang được dùng làm mốc cho lãi suất ngắn hạn .

Sở dĩ người vay phải trả lãi suất là vì tiền và tín dụng có tính chất khan hiếm và hữu ích. Người vay có thể trả lãi suất vì vốn vay làm tăng thu nhập của người đi vay. Nhưng vấn đề mức lãi suất phải trả lại gây nhiều tranh cãi. Do có nhiều định nghĩa khác nhau về tiền, nên người ta có nhiều cách giải thích mâu thuẫn nhau về yếu tố quyết định mức lãi suất. Một trong những cách lý giải này là lý thuyết về vốn vay.

Chi phí phải trả cho tiền vay càng thấp, người tiêu dùng và doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn càng nhiều. Lãi suất của vay vốn càng cao, mức cung về vốn vay càng lớn. Lãi suất cân bằng được xác định bởi giao điểm của đường câu (DL) và đường cung (SL) về vốn vay, chẳng hạn lãi suất r trong hình a.Về mặt lý thuyết, các cơ quan hữu trách về tiền tệ có thể kiểm soát lãi suất thông qua các biện pháp làm thay đổi mức cung tiền, lãi suất chiết khấu và tổng mức chi tiêu (tổng cấu ) trong nền kinh tế. Nếu cung ứng tiền tệ tăng, đường cung về vốn vay có thể dịch chuyển, ví dụ từ SL tới SL1 như trong hình b. Khi đó nó gây ra tác động là giảm lãi suất cân bằng từ r xuống rp.

Hình. Lãi suất. Thị trường vay vốn và các yếu tố quyết định lãi suất.

Các nhà kinh tế bất đồng với nhau về sự nhạy cảm của đường cầu và đường cung về vốn vay đối với lãi suất. Những người thuộc phái Keynes lý luận rằng tiết kiệm chủ yếu là hàm thu nhập, chứ không phải là hàm của lãi suất, do vậy cung về vốn vay tương đối không co giãn đối với lãi suất. Họ còn lập luận rằng kế hoạch đầu tư trước hết phụ thuộc vào kỳ vọng của các nhà kinh doanh về quy mô hoạt động kinh tế trong tương lai, mà mức hoạt động này lại gắn chặt với chi phí về tư bản, do vậy nhu cầu về vốn vay cũng tương đối không co giãn đối với lãi suất. Điều này hàm ý những thay đổi lớn trong lãi suất hầu như không gây ra tác động đáng kể tới cung và cầu về tiền, do vậy nó chỉ tác động nhỏ tới mức chi cho tiêu dùng và đầu tư.

Trái lại, các nhà tiền tệ lập luận rằng cả cung và cầu về vốn vay đều tương đối co giãn đối với lãi suất, do vậy những thay đổi nhỏ của lãi suất cũng có thể gây ra tác động lớn tới chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư.

(Tài liệu tham khảo: Nguyễn Văn Ngọc, Từ điển Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân)

 

Tin mới lên