Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo xu hướng công nghiệp hóa với tỷ trọng của dịch vụ và công nghiệp đóng góp tăng dần trong GDP.
Trong giai đoạn tăng trưởng cao từ 1990 đến 2006, tốc độ tăng trưởng đạt trung bình 7,6% hàng năm, giai đoạn sau đó từ 2007-2011 chỉ còn 6,4% và từ 2012-2016 còn 5,9%. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo xu hướng công nghiệp hóa với tỷ trọng của dịch vụ và công nghiệp đóng góp tăng dần trong GDP.
Mặc dù kết quả đạt được là tích cực, nhưng tốc độ tăng năng suất của nền kinh tế còn thấp, cả giai đoạn 2006 – 2016 chỉ đạt xấp xỉ 4% dù có cải thiện hơn trong giai đoạn 2011 -2016 (TCTK, 2010-2016). Đặc biệt là nếu xét năng suất lao động theo thành phần kinh tế, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài luôn có năng suất lao động (NSLĐ) cao hơn trung bình cả nước mặc dù khoảng cách có giảm đi từ 5,9 lần ở giai đoạn 2005 xuống còn 4,1 lần ở giai đoạn 2015.
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục tăng trong thập kỷ gần đây và mang đến nhiều lợi ích cho nền kinh tế, trong đó tác động lan tỏa năng suất, trước hết là năng suất lao động, của nguồn vốn này thường được mong đợi nhất bởi năng suất lao động của một quốc gia là một tiêu chí quan trọng đánh giá năng lực cạnh tranh và xác định động thái tăng trưởng cả về số lượng và chất lượng của Việt Nam.
Bài viết này đánh giá tác động lan tỏa năng suất lao động của đầu tư trực tiếp nước ngoài, từ đó đề xuất một số kiến nghị giải pháp.
Cơ sở lý thuyết của lan tỏa năng suất lao động của FDI
Đối với các quốc gia đang phát triển, tác động lan tỏa năng suất của FDI thường được dùng để chỉ loại tác động tràn của FDI đến nước nhận đầu tư, theo đó sự xuất hiện của FDI được kỳ vọng sẽ kéo theo những thay đổi về năng suất lao động của khu vực doanh nghiệp trong nước.
Trên thế giới, khi đề cập đến tác động tràn của FDI thường có 4 loại tác động được đề cập, đó là tác động do tương tác đầu ra-đầu vào giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước, xuất hiện nhờ liên kết xuôi (forward effect) hoặc/và liên kết ngược (backward effect), tác động nhờ phổ biến và chuyển giao công nghệ, tác động nhờ tăng năng lực cạnh tranh và tác động nhờ nâng cao trình độ lao động trong quá trình được đào tạo và học hỏi kiến thức, kỹ năng từ doanh nghiệp FDI.
Tác động trên có thể là tích cực và tiêu cực, trong khi tác động lan tỏa thường mong muốn tác động tràn tích cực của FDI, trong đó lan tỏa qua chuyển giao công nghệ rất được các nước nhận đầu tư, đặc biệt là Việt Nam đón nhận.
Trên thực tế, hầu hết quốc gia đang phát triển đều thiết kế chính sách nhằm khuyến khích chuyển giao công nghệ từ FDI cho khu vực trong nước, qua đó cải thiện năng lực công nghệ, năng lực cạnh tranh và cuối cùng là năng suất lao động của doanh nghiệp trong nước.
Hình 1: Cơ chế lan tỏa năng suất của FDI. Nguồn: Tác giả tổng hợp trên cơ sở các lý thuyết và tài liệu.
Hình 1 mô tả cơ chế lan tỏa của FDI theo nội hàm nêu trên, chỉ rõ 3 cơ chế lan tỏa dễ nhận biết được, bao gồm qua bắt chước học hỏi, di chuyển lao động và đặc biệt là qua chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp FDI.
Nếu xét rộng ra thì ngoài các loại tác động tràn tích cực đó, còn phải kể đến tác động lan tỏa về mặt không gian của FDI nhằm định hướng chính sách thu hút FDI. Tuy nhiên, tác động lan tỏa không gian của FDI phần lớn gắn với hình thành các cụm ngành, nên bản chất cũng là liên kết sản xuất giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước, cả liên kết xuôi và liên kết ngược.
Chính nhờ liên kết sản xuất, doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào chuỗi cung ứng của doanh nghiệp FDI, được chuyển giao công nghệ và chuyển giao kỹ năng, qua đó sẽ nhận được tác động lan tỏa năng suất từ FDI.
Ngoài con đường mua công nghệ, mua máy móc thiết bị kèm chuyển giao công nghệ, liên kết sản xuất là cách tiếp cận quan trọng để doanh nghiệp trong nước có thể nhận tác động lan tỏa năng suất một cách bền vững.
Thực trạng về tác động lan tỏa năng suất của FDI
Tác động lan tỏa năng suất của FDI thường được đánh giá bằng phương pháp định lượng nhằm ước lượng mức độ lan tỏa. Kết quả một công trình nghiên cứu năm 2005 đã chỉ ra tác động tràn năng suất của FDI tới doanh nghiệp trong nước ngành công nghiệp chế biến tạo, nhưng tác động còn yếu.
Carol và cộng sự (2015) đã phân tích tác động tràn năng suất của doanh nghiệp FDI sử dụng bộ số liệu điều tra từ 2009-2012 về công nghệ và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp chế tạo do Tổng cục thống kê thực hiện trong khuôn khổ Dự án hỗ trợ phát triển doanh nghiệp do Chính phủ Đan Mạch tài trợ cũng đã tìm thấy tác động lan tỏa năng suất nhờ liên kết ngược và xuôi từ doanh nghiệp FDI, nhất là từ hình thức liên doanh đến doanh nghiệp cung ứng đầu vào trong nước.
Các kết quả nghiên cứu này đã đưa ra bằng chứng cho thấy Việt Nam đã nhận được tác động tích cực từ FDI, nhưng nhìn chung mức độ tác động tích cực còn thấp, chủ yếu do khả năng cạnh tranh, học hỏi, nhất là liên kết sản xuất, tham gia vào chuỗi cung ứng của doanh nghiệp trong nước còn yếu. Đây cũng là nguyên nhân cơ bản hạn chế nhận được tác động lan tỏa từ FDI.
Như vậy liên kết ngược và xuôi chính là điều kiện quan trọng để chuyển giao công nghệ giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước, qua đó tác động đến tăng năng suất.
Hình 2: Tỷ lệ doanh nghiệp nhận được chuyển giao công nghệ qua liên kết ngược. Nguồn: Báo cáo năng lực cạnh tranh và công nghệ ở cấp độ doanh nghiệp.
Theo hình 2, trong số hơn 4162 doanh nghiệp phản hồi chỉ có 4,5% nhận được chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp FDI từ liên kết ngược (tức là bán đầu vào cho doanh nghiệp FDI), trong khi 11% từ doanh nghiệp trong nước, tức là rất thấp, phần lớn không nhận được chuyển giao.
Tương tự, cũng chỉ có 5% doanh nghiệp trong nước nhận được chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp nước ngoài thông qua liên kết xuôi (tức là mua đầu vào từ doanh nghiệp nước ngoài). Qua đó khẳng định lại chuyển giao công nghệ từ FDI rất thấp và điều này hạn chế tác động lan tỏa từ FDI.
Một vấn đề đáng lưu ý là khả năng nhận chuyển giao công nghệ còn phụ thuộc vào quy mô của doanh nghiệp, trong đó chỉ doanh nghiệp có qui mô lao động từ 50 người trở lên mới có năng lực tiếp nhận công nghệ. Do đó, quy mô doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ không có lợi thế để nhận được tác động lan tỏa năng suất, trong khi phần lớn doanh nghiệp trong nước lại có qui mô vừa và nhỏ.
Hơn nữa, các trường hợp nhận được chuyển giao công nghệ qua các liên kết xuôi, ngược cho thấy chuyển giao công nghệ thường diễn ra khi giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước ký hợp dài hạn về cung ứng sản phẩm. Từ thực tế điều tra doanh nghiệp của Báo cáo nêu trên đã chỉ ra thời hạn hợp đồng mua/bán đầu vào của doanh nghiệp trong nước thường ngắn, dưới 12 tháng, trong đó doanh nghiệp qui mô vừa và lớn thường ký kết được hợp đồng dài hạn hơn.
Điều này một lần nữa thể hiện sự đuối sức của doanh nghiệp qui mô nhỏ để có được cơ hội liên kết sản xuất và nhận chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp FDI. Đánh giá và xếp hạng năng lực cạnh tranh (NLCT) của Diễn đàn kinh tế thế giới về một số chỉ tiêu liên quan đến lan tỏa của FDI khẳng định lại những nhận định nêu trên.
Hình 3: So sánh xếp hạng một số chỉ tiêu về lan tỏa FDI. Nguồn: WEF (2014, 2017). (Ghi chú: vị trí càng thấp là càng tốt)
Hình 3 cho thấy năm 2017 so với 2014 Việt Nam đã cải thiện được liên kết sản xuất, thể hiện qua sự tăng hạng về bề rộng của chuỗi giá trị và mức độ phát triểm cụm ngành. Nhờ đó kéo theo sự cải thiện về chuyển giao công nghệ liên quan đến FDI.
Tuy nhiên, xếp hạng số lượng và chất lượng nhà cung cấp địa phương đều bị tụt hạng phản ánh tình trạng công nghiệp hỗ trợ vẫn chưa tiến bộ nhiều, các doanh nghiệp trong nước tham gia ngành này vừa thiếu và vừa kém chất lượng.
Nhìn chung, dù cải thiện nhưng Việt Nam vẫn đang kém xa Trung Quốc và Thái Lan ở các chỉ số này, đồng nghĩa với chưa nhận được nhiều tác động lan tỏa năng suất từ FDI. Ngoài các nguyên nhân đã phân tích ở trên, năng lực hấp thụ công nghệ của doanh nghiệp trong nước vẫn còn yếu mặc dù đã thăng hạng trong giai đoạn 2014-2017.
Bên cạnh đó, nguồn nhân lực có trình độ cũng là một điều kiện để tăng khả năng tiếp nhận công nghệ từ FDI và tiếp thu kỹ năng của Việt Nam vẫn còn thiếu hụt, trong khi các nước một mặt tích cực đào tạo nguồn nhân lực, mặt khác cạnh tranh để thu hút nhân tài và giữ nhân tài. Đây là những vấn đề lớn của nền kinh tế, đòi hỏi phải có tầm nhìn và chính sách của Nhà nước, không thể chỉ trông chờ vào nỗ lực của bản thân doanh nghiệp.
Kết luận và gợi ý chính sách
Qua đánh giá thực trạng có thể kết luận Việt Nam đã khá thành công trong thu hút FDI và khẳng định FDI có tác động lan tỏa năng suất đến khu vực doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên mức độ tác động lan tỏa vẫn còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng và kỳ vọng của định hướng thu hút FDI có chọn lọc và hiệu quả.
Chính sách thu hút FDI hiện chưa làm tốt vai trò tạo liên kết giữa doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước. Do đó tới đây cần tập trung tăng năng lực của khu vực doanh nghiệp trong nước, đặc biệt doanh nghiệp tư nhân, để tạo điều kiện và cơ hội cho khu vực trong nước nhận được tác động lan tỏa từ FDI.
TS. Nguyễn Thị Tuệ Anh. Ảnh: MPI
Điều này đòi hỏi có sự điều chỉnh chính sách FDI theo hướng kết nối hơn với khu vực trong nước, lấy sự liên kết sản xuất và lan tỏa FDI làm những chỉ tiêu đánh giá hiệu lực và hiệu quả của chính sách. Thu hút FDI cuối cùng là cần hướng đến làm tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước để khu vực này có thể kết nối được với khu vực FDI, qua đó tham gia vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.
Bên cạnh đó hình thành một số cụm ngành để khai thác tác động lan tỏa của FDI ở một số ngành có dung lượng thị trường lớn, ví dụ các ngành điện tử, chế biến thực phẩm, may mặc, da giày v.v. nhất là ngành đã có sự hiển diện của các doanh nghiệp FDI đầu đàn (như SamSung, Canon v.v), từ đó phát triển doanh nghiệp sản xuất đầu vào trung gian (công nghiệp hỗ trợ), khuyến khích hoặc ra điều kiện về liên kết sản xuất, chuyển giao công nghệ của doanh nghiệp FDI trong những ngành này cho doanh nghiệp trong nước.
Tiếp tục thu hút FDI có chọn lọc, ưu tiên các nhà đầu tư chủ động có chiến lược đào tạo, bồi dưỡng cho doanh nghiệp trong nước tiềm năng để mở ra cơ hội cho doanh nghiệp trong nước tham gia vào chuỗi giá trị của doanh nghiệp FDI và có bước chuẩn bị trước để đón nhận chủ động.
Một số doanh nghiệp FDI qui mô lớn, hoạt động trên phạm vi toàn cầu như Samsung Việt Nam bước đầu đã có chương trình bồi dưỡng doanh nghiệp phụ trợ trong nước để tăng cường năng lực cho các doanh nghiệp này có đủ điều kiện tham gia vào chuỗi cung ứng của SamSung. Ở đây cần có sự vào cuộc của nhà nước nhằm tạo sự liên kết giữa nhà nước Trung ương và địa phương, doanh nghiệp, hiệp hội để cùng doanh nghiệp nhân rộng mô hình này.
Từ thực tiễn nêu trên, cần rà soát, tái cấu trúc các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, đổi mới cách thức hỗ trợ theo hướng chọn lọc và tập trung hơn nhằm tăng qui mô của doanh nghiệp, tăng năng lực cạnh tranh và tạo dựng liên kết sản xuất với khu vực FDI, tập trung vào năng lực công nghệ, đào tạo nhân lực, năng lực thực thi hợp đồng và năng lực quản lý sản xuất đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp FDI đầu đàn.
(VNF) - Ông Nguyễn Hồ Ngọc - Giám đốc đào tạo ATC Academy cho rằng, "mốc 500 triệu hiện nay chỉ thực sự phù hợp với các ngành có biên lợi nhuận rất cao. Nếu chỉ nhìn vào mức doanh thu mà không nhìn vào tỷ suất lợi nhuận, chính sách sẽ nặng tay với nhóm biên lợi nhuận thấp và nhẹ tay với nhóm biên lợi nhuận cao".
(VNF) - TS Nguyễn Đình Cung cho rằng, hiện còn quá nhiều đầu mối doanh nghiệp nhà nước (DNNN), vai trò chưa tương xứng, nói là chủ đạo nhưng chưa cho nhóm này phát triển. Do đó, ông Cung kiến nghị tái cơ cấu, chỉ cần dưới 100 nhưng quy mô tăng gấp 10 – 15 lần.
(VNF) - Kỳ họp thứ 10 - kỳ họp cuối cùng của Quốc hội khóa XV chính thức được khai mạc từ cuối tháng 10. Đây là kỳ họp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vừa là bước tổng kết một nhiệm kỳ nhiều đổi mới, dân chủ, trách nhiệm và hiệu quả, vừa là sự chuẩn bị cho chặng đường của nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI với yêu cầu toàn diện và sâu sắc hơn.
(VNF) - Quá trình M&A trong lĩnh vực giáo dục không chỉ là vấn đề tài chính mà còn đòi hỏi sự nhạy bén trong quản trị văn hóa và vận hành. Đây là bài học mà ông Punendu Sharma, Giám đốc đầu tư (CIO) của EQuest Education Group, rút ra sau nhiều năm tham gia các thương vụ M&A tại Việt Nam.
(VNF) - Quỹ đất xanh tại các thành phố lớn đang dần thu hẹp, đặt ra thách thức với các cơ sở giáo dục trong việc xây dựng môi trường học tập lành mạnh. Tạp chí Đầu tư Tài chính - VietnamFinance đã có cuộc trò chuyện với bà Lê Nguyễn Trung Nguyên – Tổng giám đốc Hệ thống Giáo dục Victoria School về cách tiếp cận mô hình xanh, các cân nhắc về chi phí và vận hành, cũng như những khó khăn thực tế khi áp dụng tại môi trường đô thị Việt Nam.
(VNF) - Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIV đặt mục tiêu tăng trưởng GDP bình quân 10%/năm giai đoạn 2026–2030 – một tham vọng rất lớn trong bối cảnh mô hình tăng trưởng dựa vào lao động giá rẻ và FDI đã cạn dư địa. Các chuyên gia nhấn mạnh, muốn đạt được mục tiêu này, Việt Nam phải chuyển sang tăng trưởng dựa trên việc tăng năng suất và đổi mới sáng tạo.
(VNF) - TS Nguyễn Minh Cường cho rằng khi bàn về việc xây dựng trung tâm tài chính, cần đặt vấn đề trong bối cảnh: Liệu đây có phải là bước phát triển tiếp theo sau giai đoạn tự do hóa thương mại? Trung tâm tài chính có thể trở thành xuất phát điểm và động lực để thúc đẩy quá trình tự do hóa tài chính hay không?
(VNF) - Việt Nam đang hoàn thiện thể chế để thúc đẩy thương mại hóa tài sản trí tuệ, coi tri thức và công nghệ là động lực tăng trưởng mới và bền vững. Để làm điều đó, việc tạo hành lang pháp lý rõ ràng sẽ mở 'đường băng' đưa kết quả nghiên cứu và sáng tạo từ phòng thí nghiệm ra thị trường, thúc đẩy nền kinh tế tri thức.
(VNF) - Theo các chuyên gia, hiện tại là giai đoạn "vàng" để doanh nghiệp Việt tận dụng cơ hội từ Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA). Tuy nhiên, các quy định mới của EU về phát triển bền vững và bảo hộ thương mại đòi hỏi doanh nghiệp phải chủ động thích ứng, nếu không muốn bỏ lỡ lợi thế mà EVFTA mang lại.
(VNF) - Cơ chế Nhà nước đặt hàng doanh nghiệp tham gia vào các dự án lớn không chỉ mở ra cơ hội lớn cho Việt Nam trong việc xây dựng xây dựng đội ngũ doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh mà còn mở ra cơ hội để nâng cao năng lực nội sinh cho nền kinh tế.
(VNF) - Theo Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Mạnh Hùng, trí tuệ nhân tạo (AI) phải đi trong một “hành lang hẹp” giữa hỗn loạn và kiểm soát, giữa tự do và nỗi sợ hãi. Nhiệm vụ của chúng ta là định hướng bằng sự khôn ngoan và trách nhiệm. Một nhà nước mạnh phải bảo vệ những giá trị nhân văn, trong khi một xã hội cởi mở phải khuyến khích sáng tạo và đối thoại.
(VNF) - TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương
(CIEM) cho rằng, nếu không có đột phá mạnh mẽ về thể chế và nâng cao năng suất, chất lượng,
nền kinh tế Việt Nam sẽ khó thoát khỏi vòng luẩn quẩn tăng trưởng theo chiều rộng.
(VNF) - Bà Đào Thị Thu Thủy, Giám đốc chương trình MBA, Chánh văn phòng Tổ chức Khoa học và Chuyên gia Việt Nam toàn cầu (AVSE Global) khẳng định, khu vực kinh tế tư nhân đóng vai trò trung tâm trong hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng hai con số mà Việt Nam hướng tới trong những thập niên tới, nhờ vàosức mạnh của động lực nội sinh, tính linh hoạt cao, khả năng tạo việc làm lớn
và sức cạnh tranh ngày càng gia tăng.
(VNF) - TS. Nguyễn Bá Hùng, Chuyên gia kinh tế trưởng ADB tại Việt Nam, cho rằng Việt Nam cần thay đổi mô hình tăng trưởng, bởi mô hình dựa nhiều vào mở rộng nguồn lực đã bộc lộ hạn chế. Để duy trì tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, nền kinh tế cần chuyển dịch sang hướng chú trọng hiệu quả và đổi mới sáng tạo.
(VNF) - Trong bối cảnh pháp luật còn chồng chéo, việc phân định rủi ro kinh doanh
thông thường và hành vi vi phạm hình sự không hề dễ dàng. Điều này đặt ra yêu
cầu cấp thiết phải hoàn thiện thể chế để bảo vệ doanh nghiệp, doanh nhân, đồng
thời giữ nghiêm kỷ cương pháp luật. Tạp chí Đầu tư Tài chính đã có cuộc trao
đổi với luật sư Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch SB Law, về vấn đề này.
(VNF) - Theo nữ tỷ phú Nguyễn Thị Phương Thảo, chuyện "giải cứu" HoSE cho thấy khu vực tư nhân hoàn toàn có đủ năng lực thúc đẩy các lĩnh vực công nghệ then chốt.
(VNF) - Từ câu chuyện của VEAM, có thể thấy Nhà nước cần đứng ra tạo điều kiện hơn nữa cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển ngành ô tô - xe máy Việt Nam.
(VNF) - Theo ông Hồ Đức Thắng - Viện trưởng Viện Công nghệ số và Chuyển đổi số Quốc gia, việc đưa AI vào giảng dạy ngay từ bậc tiểu học là bước đi táo bạo, song để “đi nhanh mà chắc”, cần một lộ trình thận trọng, khả thi và đặt an toàn cũng như chất lượng giáo dục lên hàng đầu.
(VNF) - Bà Natalie Nguyễn – Chuyên gia hơn 20 năm kinh nghiệm trong ngành bán dẫn quốc tế cho rằng Việt Nam đang đứng trước một “cửa sổ cơ hội” hiếm hoi để chen chân vào bản đồ bán dẫn thế giới, nếu có chiến lược đúng và hành động kịp thời.
(VNF) - Ông Chu Thúc Đạt - Phó Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo nhận định: "Đổi mới sáng tạo không thể chỉ dừng lại ở nghiên cứu hàn lâm mà phải được thương mại hóa, tạo ra giá trị thực tiễn. Chuyển giao công nghệ trở thành chiếc cầu nối giúp đưa ý tưởng và kết quả nghiên cứu ra thị trường, giải quyết các bài toán của quốc gia, ngành và địa phương, đồng thời mở ra dòng chảy giá trị mới cho doanh nghiệp".
(VNF) - Theo TS. Lương Minh Huân - Viện trưởng Viện Phát triển doanh nghiệp VCCI, để xây dựng nền công nghiệp tự chủ và hùng cường, doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động nâng cao năng lực, đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, hiệp hội và các tổ chức hỗ trợ trong việc mở rộng khả năng tham gia vào chuỗi cung ứng nội địa và toàn cầu.
(VNF) - AI và công nghệ được xem là “ánh sáng” của thời đại mới, mở ra cơ hội giúp Việt Nam bứt phá. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, song hành với khát vọng đi nhanh, đất nước phải bảo đảm an sinh xã hội, đầu tư cho con người và thu hẹp khoảng cách công nghệ, nếu không sẽ tạo ra những bất bình đẳng mới.
(VNF) - Theo Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Nguyễn Mạnh Hùng, chiến lược phát triển AI của Việt Nam là “vừa nhanh, vừa an toàn, vừa nhân văn”. AI phải phục vụ con người, là trợ lý cho con người, không thay thế tư duy, giá trị và trách nhiệm của con người với tầm nhìn tầm nhìn AI sẽ trở thành “hạ tầng trí tuệ” của quốc gia.
(VNF) - Đại tướng Lương Tam Quang - Bộ trưởng Bộ Công an cảnh báo: Trí tuệ nhân tạo có thể bị lợi dụng vào các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, gây bất ổn xã hội, hoặc dẫn tới các dạng chiến tranh phi truyền thống trong không gian mạng, thông tin và dư luận
(VNF) - Ông Nguyễn Hồ Ngọc - Giám đốc đào tạo ATC Academy cho rằng, "mốc 500 triệu hiện nay chỉ thực sự phù hợp với các ngành có biên lợi nhuận rất cao. Nếu chỉ nhìn vào mức doanh thu mà không nhìn vào tỷ suất lợi nhuận, chính sách sẽ nặng tay với nhóm biên lợi nhuận thấp và nhẹ tay với nhóm biên lợi nhuận cao".
Cụm chung cư Ngô Gia Tự (phường Vườn Lài, TP. HCM) được xây từ năm 1968 và hiện xếp loại D. Đến nay, việc tháo dỡ để xây mới vẫn dang dở, dự án cũng chưa có nhà đầu tư.