'Thăm' khu đất xây 365 căn nhà ở xã hội ngay trong nội đô Hà Nội
(VNF) - Dự án nhà ở xã hội NO1 thộc Khu đô thị mới Hạ Đình, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân và xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.
Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này, phương thức tính thuế và lộ trình tăng thuế cần phải phù hợp để duy trì môi trường kinh doanh ổn định, hài hòa lợi ích của Nhà nước, người dân và doanh nghiệp.
Trên thế giới hiện phổ biến 3 phương thức đánh thuế TTĐB, bao gồm cơ cấu thuế tương đối (theo tỉ lệ phần trăm trên giá bán), cơ cấu thuế tuyệt đối (mức thuế cố định tính trên đơn vị hàng hóa) và cơ cấu thuế hỗn hợp (kết hợp giữa thuế tính theo tỉ lệ phần trăm và thuế tuyệt đối.
Trong 3 phương thức, số quốc gia chọn đánh thuế tuyệt đối là đông nhất (66 quốc gia), tiếp đến là thuế hỗn hợp (61 quốc gia) và thuế theo tỉ lệ phần trăm (47 quốc gia). Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới và Công ty PwC Việt Nam, so với gần 15 năm trước (2008), số lượng quốc gia chọn lựa cách tính thuế hỗn hợp đã gia tăng đều đặn và ngược lại số quốc gia áp dụng hệ thống thuế tương đối lại sụt giảm.
Kinh nghiệm các quốc gia
Trước khi rời Liên minh châu Âu (EU), Anh là nước có mức thuế gián thu đối với thuốc lá cao nhất trong số các thành viên EU. Điều này đã dẫn đến tỉ trọng thuế rất cao trong giá bán lẻ thuốc lá.
Vào năm 2011, Vương quốc Anh đã tăng mạnh thuế TTĐB, cụ thể thuế theo tỷ lệ phần trăm đã giảm từ 24% xuống 16,5% trong khi thuế tuyệt đối tăng lên khoảng 30% (từ EUR119/1.000 điếu lên EUR155/1.000 điếu). Gánh nặng thuế đã tạo ra thị trường tiêu thụ lớn cho thuốc lá bất hợp pháp và thuốc lá giả (chiếm khoảng 20% thị phần), thất thu thuế ước tính khoảng 2,3 - 2,5 tỷ bảng Anh trong giai đoạn 2016-2017, kèm theo đó tỷ lệ việc làm trong ngành bán lẻ bị giảm sút nghiêm trọng.
Trường hợp của Đức là minh chứng rõ ràng cho việc tăng thuế TTĐB quá mức (giai đoạn 2002-2005) ở cả hai cấu phần thuế theo tỷ lệ phần trăm và thuế tuyệt đối đã dẫn đến việc giá bán lẻ thuốc lá hợp pháp tăng mạnh, từ đó khiến người tiêu dùng hướng tới các lựa chọn thay thế khác. Hậu quả là lượng tiêu thụ thuốc lá hợp pháp giảm khoảng 34% (giảm từ 145,2 tỷ xuống 95,8 tỷ điếu thuốc lá), dẫn đến Chính phủ đã mất một nguồn thu đáng kể trong khi các vấn đề về buôn lậu và thương mại xuyên biên giới tăng cao.
Sau đó, từ năm 2005 trở đi, cấu phần thuế theo tỷ lệ phần trăm bắt đầu giảm dần trong khi cấu phần thuế tuyệt đối đã bắt đầu tăng dần đều. Với xu hướng này, Đức đã có thể đạt được mục tiêu tăng doanh thu của Chính phủ cũng như giảm tiêu dùng. Từ năm 2010, bằng cách thực hiện Mô hình Thuế Thuốc lá theo hướng tăng dần thuế TTĐB một cách vừa phải trong một khoảng thời gian cụ thể (5 năm), Chính phủ Đức đã có được nguồn thu ngân sách dễ dự đoán hơn. Đồng thời, các doanh nghiệp không cần phải tăng giá bán lẻ thuốc lá lên quá cao.
Indonesia, thị trường thuốc lá lớn nhất Đông Nam Á đã từ bỏ hệ thống thuế theo tỷ lệ phần trăm và chuyển sang áp dụng chính sách thuế “tuyệt đối đa cấp” phức tạp hơn vàonăm 2009, trong đó thuế TTĐB đối với thuốc lá được xác định dựa trên loại thuốc lá (kretek/non- kretek), phương pháp sản xuất (sản xuất bằng máy/thủ công), khối lượng sản xuất và giá banderol (hoặc giá bán lẻ thực tế).
Chính phủ Indonesia thực hiện tăng thuế đối với các sản phẩm thuốc lá gần như hàng năm kể từ năm 2014 dựa trên chương trình cải cách thuế vì lợi ích cho sức khỏe khiến cho giá bán lẻ thuốc lá tăng khoảng 10-12% mỗi năm và thuế TTĐB đối với các sản phẩm thuốc lá thêm 23%. Kết quả là năm 2018, số thu thuế TTĐB đối với thuốc lá của Indonesia đạt khoảng 164,8 tỷ Rp, tăng từ khoảng 143,5 tỷ Rp trong năm 2015-2016. Tỷ trọng thu ngân sách nhà nước từ thuốc lá tăng từ 8,2% lên 9% vào đầu năm 2020.
Philippines cũng trải qua một quá trình cải cách thuế từ từ trong những năm vừa qua để đơn giản hóa cơ cấu thuế thành cơ cấu thuế tuyệt đối một bậc. Tiến trình thay đổi cơ cấu thuế TTĐB của Philippines qua 3 giai đoạn.
Giai đoạn 1997-2012: Philippines áp dụng hệ thống thuế tuyệt đối 4 bậc và là quốc gia bán thuốc lá rẻ nhất khi chi phí thuế tính theo tỷ lệ % trên giá bán lẻ nằm trong nhóm thấp nhất của Asean.
Giai đoạn 2013 - 2016: Đạo luật RA 10351 được ban hành và thuế TTĐB được chuyển từ hệ thống thuế tuyệt đối 4 bậc sang 2 bậc, dự kiến tăng 4% mỗi năm. Sau cải cách này, tỷ trọng thuếTTĐB trên một bao thuốc lá đã tăng đột biến từ 108% lên 341% (đối với các nhãn hiệu giá rẻ) vào năm 2013 đồng thời sản lượng thuốc lá được tiêu thụ đã giảm đáng kể.
Từ năm 2017 trở đi: Philippines chuyển sang hệ thống thuế tuyệt đối một bậc thống nhất. Saunăm 2017 (khi Đạo luật Cộng hòa số 10963 được thông qua vào tháng 12 năm 2017), thuế suấtthuế TTĐB tiếp tục tăng 4%/năm để điều chỉnh theo lạm phát và tăng 5%/năm từ năm 2024. Bản sửa đổi thứ hai và cũng là bản sửa đổi mới nhất theo Đạo luật Cộng hòa số 11346 (RA 1136) đã được thông qua vào tháng 7 năm 2019 và đặt mức tăng thuế TTĐB lên 29% đối với thuốc lá vào năm 2020.
Ở Malaysia, áp dụng cách tăng thuế đột ngột với mức thuế TTĐB tăng thêm hơn 40% vào năm 2016. Ngay khi Malaysia thực hiện việc tăng thuế trong năm 2016, thị phần thuốc lá lậu năm 2016 tại Malaysia tăng gần 40% so với năm 2015 (từ 37% lên 52% thị trường) và đến năm 2020 thị phần thuốc lá lậu đã chiếm 64% thị trường Malaysia. Tương ứng với việc gia tăng thị phần thuốc lá lậu, thị phần thuốc lá hợp pháp tại Malaysia vào năm 2016 đã giảm ngay lập tức 26%; cho đến năm 2020 đã giảm 42% so với năm 2015. Trong khi đó tổng sản lượng thuốc tiêu thụ tại Malaysia (tính cả thuốc lá hợp pháp và bất hợp pháp) tiếp tục tăng đều khoảng 5%/năm (và chỉ giảm nhẹ vào năm 2020 do tình hình Covid 19). Thất thu thuế TTĐB năm 2018 của Malaysia lên tới 4,8 tỷ RM.
Hướng đi nào cho Việt Nam?
Dù không có chính sách thuế nào là hoàn hảo và có thể đem áp dụng chung cho mọi quốc gia do đặc điểm, quy mô phát triển kinh tế, và hành vi hút thuốc lá ở mỗi quốc gia là khác nhau, nhưng một chính sách thuế theo thông lệ tốt nhất hoặc có hiệu quả phải đảm bảo được xem xét kỹ lưỡng về tác động và những ảnh hưởng của thuế suất hoặc việc cải cách cơ cấu thuế suất lên các bên liên quan khác nhau.
Nhìn từ thông lệ quốc tế tốt nhất, một chính sách thuế thuốc lá hiệu quả và toàn diện cần phải có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, dịch chuyển từ cơ cấu thuế theo tỷ lệ phần trăm sang cơ cấu hỗn hợp và tiến tới thuế tuyệt đối đơn bậc, như Hàn Quốc đã làm.
Thứ hai, tăng thuế TTĐB từ từ, không nên tăng thuế đột ngột. Nếu không, như Malaysia, Anh, giá bán lẻ thuốc lá hợp pháp đột ngột tăng cao, khiến người tiêu dùng rời bỏ thuốc lá hợp pháp. Nguồn thu của Chính phủ khi đó sẽ trở nên mất ổn định và có thể giảm xuống.
Thứ ba, cần có lộ trình tăng thuế dài hạn, minh bạch như Philippines thực hiện khi cải cách thuế từ 4 bậc xuống còn đơn bậc, đồng thời điều chỉnh thuế TTĐB hàng năm.
Thứ tư, việc điều chỉnh thuế nên thực hiện từng bước, bảo vệ tính hiệu quả của biện pháp trước lạm phát. Hiện nay, nhiều nước đã áp dụng cách tiếp cận này và điều chỉnh thuế suất định kỳ qua thời gian. Chẳng hạn Philippines đã bãi bỏ “chế độ giữ nguyên phân loại giá” và sau cuộc cải cách thuế năm 2017, Philippines cũng đã tăng mức thuế hàng năm để phù hợp với mức lạm phát. Tương tự, Hàn Quốc đã cố gắng điều chỉnh mức thuế thuốc lá so với lạm phát để họ có thể tăng giá thuốc lá thực tế một cách tương ứng nhằm phản ánh sức mua thực tế của người tiêu dùng và mức độ khả năng chi trả của họ.
Ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng thư ký VCCI cho rằng, bên cạnh những kết quả quan trọng đạt được, cộng đồng doanh nghiệp kỳ vọng thuế TTĐB cần đáp ứng yêu cầu cao hơn như đảm bảo được một môi trường kinh doanh ổn định, thuận lợi, hài hòa lợi ích của Nhà nước, người dân và doanh nghiệp. Một sắc thuế TTĐB tốt thì ngoài các mục tiêu như định hướng hành vi tiêu dùng, tăng thu ngân sách thì cần tính tới các yếu tố: tính khả thi, tính tuân thủ, cạnh tranh bình đẳng, tính tin cậy, dự báo trước được và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Bà Lê Thị Thùy Vân, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách Tài chính (Bộ Tài chính) cho rằng phương thức đánh thuế theo mức tuyệt đối và đặc biệt là phương thức đánh thuế hỗn hợp hiện đang được sử dụng phổ biến tại nhiều quốc gia do lợi ích mang lại của hai phương pháp này, đồng thời khuyến nghị việc tăng thuế TTĐB theo phương pháp hỗn hợp cần có lộ trình để đảm bảo số thuế tuyệt đối tăng qua các năm cần tương ứng với tốc độ lạm phát.
Tại Việt Nam, Chính phủ đã ban hành các văn bản định hướng chuyển sang áp dụng hệ thống thuế hỗn hợp để hỗ trợ tốt hơn cho mục tiêu giảm sản lượng tiêu thụ sản phẩm thuốc lá. Bà Đinh Thị Quỳnh Vân, Tổng giám đốc Công ty PwC Việt Nam nhận định: “Ở giai đoạn hiện nay, Việt Nam có thể chuyển sang hệ thống thuế hỗn hợp, sau đó tăng dần thành phần tuyệt đối và giảm dần thành phần tương đối. Trong tương lai, khi phù hợp sẽ chuyển sang hệ thống thuế tuyệt đối đơn bậc”.
Bà Nguyễn Thị Cúc, Chủ tịch Hội Tư vấn thuế Việt Nam (VTCA) cho rằng, việc tăng thuế đối với mặt hàng thuốc lá nên có lộ trình để các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có thể điều chỉnh, sắp xếp bố trí hoạt động sản xuất kinh doanh, vừa đảm bảo vừa ổn định sản xuất, vừa đóng góp nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, vừa hạn chế thuốc lá lậu, tránh thất thu thuế. Lộ trình này cần cân nhắc cả về thời gian và mức thuế điều tiết.
“Chúng tôi ủng hộ phương án tăng thuế theo lộ trình hợp lý từ 2025. Trong năm đầu tiên, bên cạnh thuế suất 75% bổ sung thêm thuế tuyệt đối ở mức 500 đồng/bao, tiếp đến nâng dần theo lộ trình 500 đồng/bao mỗi năm”, bà Cúc chia sẻ.
Việc chuyển đổi sang hệ thống thuế hỗn hợp và thuế tuyệt đối đơn bậc là hướng đi tất yếu của các quốc gia để đạt được các mục tiêu vi mô lẫn vĩ mô. Tuy nhiên, tăng thuế TTĐB đối với thuốc lá cần được thực hiện từng bước, với mức độ vừa phải để tránh gây sốc cho thị trường. Kế hoạch tăng thuế TTĐB cần có lộ trình hợp lý và có tính định hướng dài hạn để giúp các doanh nghiệp có đủ thời gian thích ứng, lên kế hoạch sản xuất kinh doanh, tránh các tác động môi trường - xã hội.
Theo các chuyên gia, cách làm phù hợp cho Việt Nam trong giai đoạn sắp tới là bổ sung thuế tuyệt đối từ năm 2025 với một lộ trình tăng thuế hợp lý, mức tăng phù hợp, tránh tăng thuế đột ngột dẫn đến gia tăng thuốc lá lậu, gây bất ổn thị trường
(VNF) - Dự án nhà ở xã hội NO1 thộc Khu đô thị mới Hạ Đình, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân và xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.