Bước tiến mới trong xử lý nợ xấu: Từ 'đối đầu' sang 'chia sẻ rủi ro'
Thanh Trúc -
06/12/2025 09:30 (GMT+7)
(VNF) - Theo ông Lưu Minh Sang, Giảng viên Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP. HCM, Nghị định 304 đóng vai trò tạo nên khung pháp lý dài hạn và bền vững cho hoạt động xử lý nợ xấu của các ngân hàng trong giai đoạn mới.
Kể từ ngày 1/12/2025, Nghị định 304/2025/NĐ-CP (Nghị định 304) chính thức có hiệu lực. Theo đó, trong trường hợp tài sản bị thu giữ là chỗ ở duy nhất của người đi vay, ngân hàng có trách nhiệm trích một khoản tiền tương đương 12 tháng lương tối thiểu từ số tiền xử lý tài sản để hỗ trợ bên vay thuê nhà ở tạm thời. Đối với các công cụ lao động chủ yếu và duy nhất không hình thành từ vốn vay, mức hỗ trợ được quy định bằng 6 tháng lương tối thiểu.
Trao đổi với VietnamFinance, ông Lưu Minh Sang, Giảng viên Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP. HCM nhận định: “Nếu Nghị quyết 42/2027/QH14 (Nghị quyết 42) là giải pháp tình thế cho giai đoạn nợ xấu tăng cao thì Nghị định 304 lại đóng vai trò tạo nên khung pháp lý dài hạn và bền vững cho hoạt động xử lý nợ xấu”.
Ông Sang phân tích, cơ chế xử lý nợ xấu và cân bằng giữa quyền chủ nợ với quyền sinh kế của người dân đã dần được hình thành và củng cố thông qua sự dịch chuyển trong tư duy làm luật từ giai đoạn thí điểm Nghị quyết 42 sang hành lang pháp lý ổn định tại Luật Các tổ chức tín dụng 2024, được sửa đổi, bổ sung năm 2025 và mới đây nhất là Nghị định 304.
Ông Lưu Minh Sang, Giảng viên Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP. HCM.
Cụ thể, dù được xem là công cụ mạnh mẽ mang tính thí điểm giúp các ngân hàng tháo gỡ điểm nghẽn về nợ xấu thông qua quyền chủ động thu giữ tài sản bảo đảm song Nghị quyết 42 vẫn còn tồn tại một số bất cập do tính chất là cơ chế thí điểm. Việc áp dụng Nghị quyết 42 tại các địa phương thiếu sự thống nhất và đôi khi phát sinh những xung đội xã hội khi quyền lợi của người bị thu giữ tài sản chưa được đảm bảo.
Để giải quyết vấn đề này, Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi đã chính thức luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm cho các ngân hàng. Cùng với các hướng dẫn tại Nghị định 304, quyền thu giữ tài sản bảo đảm được xác lập và thực hiện trong một khuôn khổ pháp lý có tính hiệu lực cao, chặt chẽ và hợp lý hơn.
“Với khung pháp lý mới, quyền của chủ nợ vẫn được bảo vệ để đảm bảo khơi thông dòng vốn nhưng buộc phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình về thông báo, niêm yết công khai và hàng loạt điều kiện khác nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con nợ. Nói cách khác, các ngân hàng buộc phải chuyên nghiệp hóa hoạt động xử lý nợ thay vì chỉ tập trung vào kết quả thu hồi bằng mọi giá”, ông Sang nhấn mạnh.
Một mặt, Nghị định 304 bảo vệ quyền thu hồi vốn của ngân hàng, mặt khác, Nghị định còn chú trọng đến an sinh xã hội khi thông qua cơ chế hỗ trợ tài chính bắt buộc. Theo ông Lưu Minh Sang, đây là điểm cân bằng quan trọng nhất và cũng là bước tiến rõ rệt nhất trong cơ chế xử lý nợ xấu so với các giai đoạn trước.
Ông Sang lý giải, việc quy định các ngân hàng bắt buộc phải trích khoản tiền hỗ trợ tương đương 6 - 12 tháng lương tối thiểu khi thu giữ tài sản bảo đảm là chỗ ở duy nhất hoặc công cụ lao động chủ yếu của người vay đã lấp đầy khoảng trống pháp lý trước kia, giúp người dân tránh khỏi tình trạng mất đi cơ sở sinh sống tối thiểu sau khi thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
“Nhìn nhận một cách tổng thể, Nghị định 304 tạo nên một điểm cân bằng quyền lợi, trong đó ngân hàng đảm bảo được hiệu quả kinh tế còn người dân được bảo vệ các quyền lợi an sinh. Đây chính là cách chúng ta đưa hoạt động xử lý nợ từ trạng thái đối đầu sang cơ chế chia sẻ trách nhiệm và rủi ro một cách minh bạch, văn minh”, ông Sang nhấn mạnh.
Tuy nhiên, có không ít ý kiến lo ngại rằng quy định trong Nghị định 304 có thể gây bất lợi về mặt tài chính cho các ngân hàng.
Trước đó, trong quá trình NHNN lấy ý kiến góp ý đối với Dự thảo Nghị định, nhiều ngân hàng cũng đã bày tỏ quan ngại về vấn đề này. Đơn cử như Agribank và HDBank, hai ngân hàng này thừa nhận việc thu giữ tài sản bảo đảm là chỗ ở duy nhất hoặc công cụ lao động chủ yếu/duy nhất có thể gây khó khăn cho bên bảo đảm nhưng việc yêu cầu tổ chức tín dụng trích khoản tiền tương ứng sẽ làm phát sinh chi phí và thủ tục khi cấp tín dụng.
Liên quan đến vấn đề này, ông Lưu Minh Sang cho rằng, phản ứng lo ngại của các ngân hàng là có cơ sở thực tế song cần đặt vấn đề trong bình diện về pháp lý lẫn bài toán chi phí - lợi ích.
Về mặt pháp lý, theo ông Sang, mấu chốt của tranh luận nằm ở việc các ngân hàng quan ngại khoản tiền hỗ trợ này sẽ làm sụt giảm nguồn thu để trả nợ gốc và lãi. "Tuy nhiên, quy định này hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc tại Bộ luật Dân sự 2015. Cụ thể, Điều 307 của Bộ luật này quy định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản cầm cố, thế chấp theo hướng ‘chi phí bảo quản, thu giữ và xử lý tài sản’ được ưu tiên thanh toán trước, sau đó mới đến nghĩa vụ nợ đối với bên nhận bảo đảm là ngân hàng", ông dẫn chứng.
Theo ông Sang, việc ngân hàng phải trích ra một khoản tiền trước khi thu hồi nợ là tuân thủ đúng trật tự ưu tiên của pháp luật.
Nghị định 304/2025/NĐ-CP đã định danh rõ ràng khoản hỗ trợ thuê nhà (tương đương 12 tháng lương tối thiểu) và chuyển đổi nghề nghiệp (6 tháng lương tối thiểu) thuộc nhóm chi phí xử lý tài sản. Đây là chi phí cần thiết để đảm bảo trật tự xã hội và tính nhân văn trong quá trình thu giữ, xử lý tài sản bảo đảm. Do đó, về mặt pháp lý, việc ngân hàng phải trích khoản này trước khi thu hồi nợ là tuân thủ đúng trật tự ưu tiên của pháp luật.
Về mặt chi phí - lợi ích, ông Sang cho rằng, thay vì nhìn nhận đây là một khoản “thiệt hại” hay một sự bất lợi thì các ngân hàng nên xem xét dưới góc độ hiệu quả kinh tế dài hạn.
Ông Sang lý giải: “Nếu không có cơ chế hỗ trợ, con nợ dễ rơi vào tình trạng phản kháng cực đoan, khiến quá trình xử lý nợ qua Tòa án và Thi hành án có thể kéo dài lên tới vài năm. Trong khoảng thời gian đó, ngân hàng phải gánh chịu chi phí cơ hội lớn do dòng vốn bị đóng băng và phát sinh hàng loạt chi phí khác như chi phí pháp lý, nhân sự cũng như áp lực trích lập dự phòng rủi ro.
Trong khi đó, nếu áp dụng Nghị định 304 để chi trả các khoản chi phí hỗ trợ an sinh (ước tính khoảng vài chục triệu đồng) thì sẽ thúc đẩy sự hợp tác từ phía người vay. Việc này giúp rút ngắn thời gian xử lý tài sản bảo đảm, giúp tài sản được bàn giao nhanh chóng và ngân hàng sớm thu hồi được nợ. Như vậy, khoản chi phí này thực chất thấp hơn nhiều so với những thiệt hại vô hình và hữu hình của việc tranh chấp kéo dài. Nó chuyển đổi quá trình xử lý nợ từ trạng thái xung đột sang giải quyết có trật tự”.
Tuy nhiên, cũng cần thừa nhận lo ngại của các ngân hàng về “rủi ro đạo đức” là xác đáng. Để quy định này phát huy hiệu quả thực tế và tránh bị trục lợi, các văn bản hướng dẫn thi hành cần đưa ra tiêu chí định lượng và quy trình thẩm định chặt chẽ thế nào là “chỗ ở duy nhất” hay “công cụ lao động thiết yếu”. Điều này nhằm ngăn chặn trường hợp người vay tẩu tán tài sản khác để hưởng lợi từ chính sách an sinh, ông Sang khuyến nghị.
Trong khi đó, ở góc độ người đi vay, câu hỏi đặt ra là: liệu quy định mới tại Nghị định 304 có khiến các ngân hàng dè dặt hơn khi cấp tín dụng, đặc biệt là đối với các khoản vay có tài sản thế chấp nhỏ, dễ bị coi là "tài sản thiết yếu" hay không?
Ông Sang thừa nhận, để thích nghi với thay đổi, các ngân hàng buộc phải có động thái phòng vệ nhằm bảo toàn vốn. Điều này có thể vô tình tạo ra những rào cản kĩ thuật mới đối với nhóm khách hàng có thu nhập thấp hoặc tài sản bảo đảm nhỏ.
Phản ứng đầu tiên của các ngân hàng sẽ nằm ở khâu thẩm định và định giá. Các ngân hàng khó có thể từ chối hồ sơ vay chỉ vì lý do tài sản nhỏ nhưng họ sẽ điều chỉnh thông qua các công cụ kỹ thuật.
Cụ thể, định giá giá trị tài sản có thể sẽ thận trọng hơn trước. Nếu như trước đây một tài sản được định giá sát thị trường thì nay ngân hàng có thể sẽ trừ trước các chi phí ước tính phải trích lập cho an sinh xã hội và chi phí xử lý tài sản bảo đảm vào giá trị tài sản đó. Kéo theo đó, tỷ lệ cho vay trên giá trị tài sản cũng sẽ được điều chỉnh giảm. Thay vì mức 70 - 80% như thông lệ, tỷ lệ này có thể hạ xuống thấp hơn đối với các tài sản được xác định là nhà ở duy nhất hoặc tài sản có tính thanh khoản thấp. Hệ quả là khả năng tiếp cận vốn vay của nhóm khách hàng yếu thế có thể bị thu hẹp.
Nhiều người lo ngại Nghị định 304 sẽ khiến các ngân hàng dè dặt hơn khi cấp tín dụng.
“Điều này dẫn đến một nghịch lý mà giới chuyên môn thường lo ngại đó là khi sự bảo vệ con nợ càng chặt chẽ thì bên cho vay càng trở nên e ngại. Khi cánh cửa tín dụng chính thống hẹp hơn, những người dân đang cần vốn kinh doanh hoặc ổn định cuộc sống có nguy cơ bị đẩy sang các kênh tín dụng phi chính thức. Tại các thị trường ‘tín dụng đen’ hay cho vay ngang hàng biến tướng, lãi suất thường rất cao và các phương thức thu hồi nợ nằm ngoài sự kiểm soát của pháp luật, nơi mà những quy định nhân văn của Nghị định 304 hay Luật Các tổ chức tín dụng hiện hành không thể với tới”, ông Sang dẫn chứng.
Tuy nhiên, theo ông, nếu nhìn nhận một cách tích cực thì đây cũng có thể là động lực để chuyển đổi mô hình cấp tín dụng tại Việt Nam. Thị trường cần chuyển dịch dần từ tư duy dựa quá nhiều vào tài sản bảo đảm sang tín dụng dựa trên dòng tiền và uy tín khách hàng. Pháp luật hiện hành cũng đã có những quy định cho phép việc xét duyệt vay vốn dựa trên đánh giá năng lực trả nợ thực tế và dữ liệu lớn thay vì chỉ chăm chăm vào việc cầm cố, thế chấp tài sản.
“Tóm lại, Nghị định 304 là một bước tiến bộ về mặt pháp lý song trong ngắn hạn không tránh khỏi tình trạng co lại của tín dụng ở phân khúc thấp. Để giải quyết bài toán này, bên cạnh sự nỗ lực của hệ thống ngân hàng, Nhà nước cần có các giải pháp tài chính vi mô đồng bộ hướng tới tài chính toàn diện để lấp đầy khoảng trống mà các ngân hàng thương mại để lại do lo ngại rủi ro pháp lý này”, ông Lưu Minh Sang cho hay.
(VNF) - Hàng loạt dự án nhà ở xã hội tại Đà Nẵng như An Trung 2, Đại Địa Bảo, Ecohome Hòa Hiệp… đang được đẩy nhanh tiến độ, cung cấp hàng nghìn căn hộ cho thị trường, đáp ứng nhu cầu an cư của người thu nhập thấp.