'Thăm' khu đất xây 365 căn nhà ở xã hội ngay trong nội đô Hà Nội
(VNF) - Dự án nhà ở xã hội NO1 thộc Khu đô thị mới Hạ Đình, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân và xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.
"Trong dịp Quốc khánh 2/9/2020 và chuẩn bị đại hội các đảng bộ trực thuộc Trung ương tiến tới Đại hội XIII của Đảng, đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Tiểu ban Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã có bài viết quan trọng “Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới”.
Trong bài viết, đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước nhấn mạnh 2 vấn đề liên quan đến doanh nghiệp nhà nước: Một là, phải đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế nhà nước và doanh nghiệp nhà nước; hai là, kinh tế nhà nước, nhất là doanh nghiệp nhà nước hoạt động còn đang gặp không ít khó khăn, ách tắc.
Đây là vấn đề đã được đặt ra nhiều năm, nhất là trong những nhiệm kỳ gần đây. Việc nhấn mạnh những vấn đề này của đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước trong bối cảnh hiện nay có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước nghĩa là doanh nghiệp phải có lãi, quy mô vốn phải tăng lên, thị phần phải được giữ vững và phát triển, nhất là phải giữ được vị trí tại thị trường trong nước, tiếp cận và mở rộng thị trường nước ngoài.
Còn về khó khăn, ách tắc: có nhiều ý kiến nêu rằng, doanh nghiệp nhà nước có nhiều lợi thế chưa được khai thác, điều này là đúng và đấy chính là biểu hiện của khó khăn, ách tắc. Những khó khăn, ách tắc này đã được nhận diện khá rõ, đó là thể chế, cơ chế đang làm doanh nghiệp nhà nước tốn nhiều thời gian, nguồn lực để theo đuổi.
Để thực hiện chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhằm nâng cao hiệu quả và tháo gỡ những khó khăn, ách tắc của doanh nghiệp nhà nước, chúng ta cần cụ thể hóa và giải quyết tốt những vấn đề sau:
Vấn đề thứ nhất, về nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Sự tồn tại các doanh nghiệp nhà nước là thực tế khách quan ở mọi quốc gia, kể cả các nền kinh tế thị trường phát triển, điểm khác nhau chỉ là ở mức độ về quy mô và lĩnh vực hoạt động. Ở Việt Nam, Nhà nước chủ trương rút vốn nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước ra khỏi những ngành, lĩnh vực mà khu vực tư nhân có khả năng cung cấp sản phẩm dịch vụ tốt hơn, hiệu quả hơn, cạnh tranh hơn.
Nghĩa là, chỗ nào hiệu quả hơn thì để tư nhân làm, như vậy, doanh nghiệp nhà nước chủ yếu sẽ chỉ còn trong các ngành, lĩnh vực có hiệu quả thấp hơn. Theo xu hướng này, số lượng doanh nghiệp nhà nước sẽ tiếp tục giảm, chỉ hoạt động trong một số ngành lĩnh vực cần được Nhà nước duy trì đầu tư vốn.
Nhưng tổng giá trị vốn nhà nước tại các doanh nghiệp vẫn còn rất lớn, tập trung vào hầu hết các tập đoàn, tổng công ty quan trọng, đang chiếm trên 80% tài sản và vốn chủ sở hữu của khu vực doanh nghiệp nhà nước. Riêng 6 tập đoàn (không tính Tập đoàn Viettel thuộc Bộ Quốc phòng) đã có tổng giá trị tài sản hơn 1,4 triệu tỷ đồng.
Như vậy, “bài toán” đặt ra là, với tổng số vốn nhà nước tại doanh nghiệp còn rất lớn, nhưng doanh nghiệp lại chỉ hoạt động trong những ngành lĩnh vực cần được Nhà nước duy trì đầu tư vốn, có hiệu quả thấp hơn, thì làm sao để tiếp tục bảo toàn được vốn và phát triển lâu dài. Đây là một thách thức rất lớn.
Hiệu suất sinh lời trên tài sản (ROA) của khu vực doanh nghiệp nhà nước năm 2017 là 2,2%, thấp hơn đáng kể so với mức trung bình 2,9% của toàn bộ khu vực doanh nghiệp, thua xa so với mức 7% của khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Hiệu suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) của khu vực DNNN là 11,4%, tuy cao hơn mức 10% ROE bình quân các doanh nghiệp, song thấp hơn so với mức 18,1% của khu vực FDI.
Để giải “bài toán” có tính xung đột này, chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại, rà soát, phân loại để sắp xếp doanh nghiệp nhà nước, tập trung hơn vào các lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư. Đồng thời, xem xét, tạo điều kiện phát triển đối với những hoạt động sản xuất, kinh doanh có hiệu quả cao trên nền lợi thế “sẵn có”, theo điều kiện cụ thể của từng tập đoàn, tổng công ty.
Ví dụ: Những năm gần đây, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam, đều có lãi trung bình khoảng 3.000 tỷ đến 4.000 tỷ mỗi năm. Tuy nhiên, tỷ suất lợi nhuận chỉ ở mức 7,5% đến 10%, dưới mức trung bình của khu vực doanh nghiệp nhà nước (11,4%), thấp xa so với khu vực FDI (18,1%). Với năng suất khai thác mủ cao su của Tập đoàn đạt cao nhất nhì khu vực châu Á, có thể nói rằng hiệu quả của Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam với lĩnh vực chính là nông nghiệp đã đến giới hạn.
Vì vậy, nên hỗ trợ và thúc đẩy để tập đoàn đầu tư lĩnh vực khu công nghiệp. Thủ tướng Chính phủ xem xét và quan trọng là các địa phương tạo điều kiện cho Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam được đầu tư khu công nghiệp trên diện tích đất cao-su của Tập đoàn theo quy hoạch sử dụng đất của địa phương.
Tập đoàn Hóa chất Việt Nam cũng ở vào tình trạng tương tự. Hiện nay, 70% nguồn lực vốn của Tập đoàn đầu tư vào sản xuất phân bón, nhưng không đem lại lợi nhuận cho tập đoàn, thậm chí còn bị thâm hụt vốn do chi phí vay đầu tư quá lớn. Sản xuất, kinh doanh phân bón có hiệu quả rất thấp do nhiều nguyên nhân, trong đó có quy định tại Luật số 71/2014/QH13 “Sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế”, đã áp mặt hàng phân bón thuộc diện không chịu thuế giá trị gia tăng, dẫn đến các doanh nghiệp của tập đoàn không được hoàn thuế, trong khi nếu quy định thuế suất bằng 0%, thì tập đoàn sẽ được hoàn thuế như các doanh nghiệp đang nhập khẩu phân bón hiện nay.
Trong khi đó, 30% nguồn lực còn lại của tập đoàn mới đem lại nguồn thu nhập chính, khoảng trên dưới 500 tỷ/năm. Nguồn thu nhập này đến từ các lĩnh vực sản xuất hóa chất cơ bản, chất tẩy rửa, pin ắc-quy, lốp ô-tô,... là những lĩnh vực, mà theo quy định phải thoái vốn dưới mức Nhà nước chi phối (nghĩa là Nhà nước có thể bán hết vốn).
Với xu hướng như trên, chỉ trong khoảng từ 2 - 3 năm nữa, Tập đoàn Hóa chất Việt Nam sẽ không còn nguồn lợi tức, hoạt động của tập đoàn chỉ còn mang tính duy trì, yếu dần, trong khi các doanh nghiệp khác thì đang lớn lên.
Với 2 ví dụ trên, đặt ra quan điểm cải cách doanh nghiệp nhà nước phải linh hoạt theo hướng có thu hẹp và cũng có đầu tư mới, mở rộng để có được chỉ số hiệu quả theo cơ chế thị trường. Việc “mới” và “mở rộng” này chỉ trên nền lợi thế “sẵn có” của doanh nghiệp, thậm chí cho phép đầu tư cả dự án đô thị nếu đất đó đang thuộc quyền sử dụng của doanh nghiệp nhà nước, thì mới giữ được lợi ích cho Nhà nước.
Vấn đề thứ hai, về tháo gỡ khó khăn, ách tắc cho doanh nghiệp nhà nước, cụ thể là thể chế. Với việc thành lập Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, đến nay dần cho thấy rõ 2 nhóm thể chế đang gây vướng mắc: một là, nhóm thể chế quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp và ngành, nghề hoạt động của doanh nghiệp; và hai là, nhóm thể chế thực hiện quyền chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
Đối với nhóm thể chế quản lý nhà nước, ách tắc điển hình hiện nay là các quy định về đầu tư. Nếu xem xét từng luật liên quan đến đầu tư thì đều có nội dung hợp lý, lô-gíc, như Luật Đầu tư, Luật Xây dựng, Luật Đầu tư công; kể cả các luật liên quan như Luật Đất đai, Luật Lâm nghiệp (liên quan đất rừng), Luật Bảo vệ môi trường... Nhưng trong thực tế, doanh nghiệp phải thực hiện đồng thời các luật, dẫn đến khối lượng thủ tục tăng lên nhiều; nhiều thủ tục có nội dung trùng lặp, không rõ thứ tự trước sau; thậm chí có quy định khác nhau, vênh nhau.
Khoảng từ năm 2015, 2016 trở lại đây, các dự án đầu tư lớn chủ yếu vẫn đang trong quá trình làm thủ tục. Trong đó có dự án đường dây 500kV Vân Phong - Vĩnh Tân đi qua 4 tỉnh, đã chuẩn bị qua 3 năm rồi, nhưng giờ bị chậm lại do phải làm thêm thủ tục sử dụng đất rừng để bảo đảm đúng Luật Lâm nghiệp có hiệu lực từ năm 2019.
Việc có các quy định quản lý nhà nước là cần thiết, tạo khung khổ hoạt động chung. Tuy nhiên, cần đồng bộ hóa các quy định tại các luật với nhau, thống nhất thành một quy trình xuyên suốt, mới tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp dễ dàng tuân thủ và tiết kiệm thời gian, chi phí.
Những ách tắc nêu trên đã tồn tại nhiều năm. Đồng ý những đề xuất của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, Chính phủ thông qua Nghị quyết số 75/NQ-CP, ngày 21-5-2020, “Về việc xử lý vướng mắc đối với một số dự án đầu tư của các doanh nghiệp do Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp làm đại diện chủ sở hữu”. Sau đó, được Quốc hội chấp thuận luật hóa trong Luật Đầu tư, Luật Xây dựng và Luật Đầu tư công sửa đổi vừa qua. Tuy nhiên, cũng chưa xử lý triệt để được hết các ách tắc hiện nay.
Đối với nhóm thể chế quản lý của chủ sở hữu nhà nước với vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Theo quy định hiện nay, có 5 lớp cơ quan tham gia vào thực hiện quyền chủ sở hữu, gồm:
- Chính phủ: Ban hành những quy định chung ở tầm nghị định;
- Thủ tướng Chính phủ: Quyết định một số vấn đề cụ thể quan trọng của doanh nghiệp, như nhân sự đứng đầu, chiến lược, chuyển đổi sở hữu;
- Các bộ tổng hợp, như: Bộ Tài chính chịu trách nhiệm về cơ chế tài chính doanh nghiệp, chấp thuận báo cáo tài chính, phân chia lợi nhuận; Bộ Kế hoạch và Đầu tư về phân loại, sắp xếp doanh nghiệp, thẩm định chiến lược doanh nghiệp, thành lập doanh nghiệp; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về kế hoạch lao động và quỹ tiền lương hằng năm; Bộ Nội vụ về nhân sự quản lý của doanh nghiệp.
- Các bộ quản lý ngành, liên quan đến chiến lược của doanh nghiệp theo ngành, các dự án đầu tư lớn.
- Đại diện quản lý vốn, gồm một phần do Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp đứng ra và quan trọng hơn là đại diện quản lý vốn trực tiếp tại doanh nghiệp (hội đồng thành viên) vì đây là những người được giao quyền đại diện vốn, đồng thời trực tiếp điều hành doanh nghiệp, quản trị sản xuất, kinh doanh.
Trong bối cảnh hiện nay, việc có nhiều cơ quan cùng tham gia thực hiện quyền chủ sở hữu của Nhà nước có ý nghĩa tích cực, tạo sự minh bạch và đồng thuận. Bên cạnh đó, cần có cơ quan làm đầu mối để đồng bộ hóa, thống nhất sự tham gia của nhiều bên, để bảo đảm cùng đi theo một xu hướng, cùng nhắm tới một mục tiêu.
Từ thực tiễn đã nêu, chúng ta cần xem xét, kịp thời sửa đổi, hoàn thiện thể chế quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp. Đồng thời, giao cho Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp có chức năng là đầu mối giúp việc Thủ tướng Chính phủ để điều phối triển khai các quy định quản lý của chủ sở hữu cho đồng bộ, thống nhất.
Trước mắt, chuyển Ban Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp Trung ương về Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp để Thủ tướng Chính phủ, Phó thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Ủy ban thực hiện chức năng đầu mối và điều phối này".
(VNF) - Dự án nhà ở xã hội NO1 thộc Khu đô thị mới Hạ Đình, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân và xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.