Đốt rác thải nhựa nung clinker làm xi măng: 'Một mũi tên trúng hai đích'
Thiên Ân -
Thứ năm, 14/08/2025 10:30 (GMT+7)
(VNF) - Ý tưởng cốt lõi của mô hình biến rác thải nhựa thành nhiên liệu cho xi măng là thay thế một phần than bằng rác thải không tái chế - đặc biệt là nhựa hỗn hợp để đốt trong lò nung clinker. Cách làm này vừa giảm tiêu thụ than, vừa xử lý triệt để dòng rác “khó nhằn” vốn đi thẳng vào bãi chôn lấp hay đại dương.
Mỗi năm, Việt Nam phát sinh khoảng 1,8 triệu tấn rác thải nhựa, trong đó chỉ khoảng 27% được thu gom và tái chế, phần còn lại chủ yếu bị chôn lấp, đốt ngoài trời hoặc trôi ra môi trường tự nhiên.
Trong khi đó, ngành sản xuất xi măng với hơn 80 lò nung clinker trên cả nước, tiêu thụ khoảng 10 triệu tấn than mỗi năm, gây áp lực lớn lên nguồn tài nguyên và phát thải khí nhà kính.
Trước bài toán kép về năng lượng và ô nhiễm nhựa, giải pháp sử dụng rác thải nhựa không tái chế làm nhiên liệu thay thế trong lò nung xi măng đang được các chuyên gia đánh giá là hướng đi khả thi, giúp giảm lượng than tiêu thụ đồng thời xử lý an toàn lượng rác nhựa tồn đọng.
“Một mũi tên trúng hai đích”: Kinh tế tuần hoàn và chi phí
Ông Hoàng Thành Vĩnh - Chuyên gia phụ trách kinh tế tuần hoàn của Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) cho biết, về mặt nguyên tắc, bình thường để làm clinker, làm xi măng, cần phải đưa than vào để đốt lò. Thay vì đưa than, người ta đưa chất thải nhựa vào làm nhiên liệu. Ví dụ, bình thường phải dùng 1.000 tấn than, bây giờ nhà máy chỉ dùng 700 tấn than còn lại là 300 tấn rác thải nhựa.
Về hiệu quả môi trường, TS. Kåre Helge Karstensen (SINTEF) - Trưởng dự án OPTOCE khẳng định, kết quả nghiên cứu và trình diễn ở Việt Nam cho thấy đồng xử lý nhựa không làm tăng phát thải dioxin và vẫn tuân thủ những ngưỡng giới hạn khắt khe nhất quốc tế.
“Đồng xử lý trong lò xi măng có thể cải thiện quản lý rác nhựa khó tái chế ở Việt Nam, giảm tiêu thụ than và giảm nhu cầu xây nhà máy đốt rác phát điện đắt đỏ”, ông Kåre Helge Karstensen nói.
Không chỉ là mục tiêu môi trường, đồng xử lý còn mang lại lợi ích kinh tế nhờ giảm chi phí nhiên liệu. Một số nhà máy trong nước đã “lên đường ray”. Theo ghi nhận, chương trình “đổi rác lấy tiền” tại Xi măng Lam Thạch (Quảng Ninh) đã tiếp nhận rác từ người lao động và cộng đồng, vừa đưa vào lò nung để thay một phần than, qua đó giảm 10–15% nguyên liệu đầu vào và tiết kiệm đáng kể chi phí mỗi năm. Về mặt hệ thống, 15/65 nhà máy đã áp dụng đồng xử lý với tỷ lệ thay thế 30 – 40% ở những đơn vị tiên phong; tuy nhiên, xét toàn ngành, nhiên liệu thay thế mới đạt 3 – 4%, cho thấy dư địa mở rộng còn rất lớn.
Một lợi ích nữa thường bị bỏ quên là tro xỉ sau đốt nhựa không phát sinh như lò đốt rác thông thường mà “hòa” vào clinker, tránh thêm một vòng xử lý. Các ưu điểm công nghệ — nhiệt độ lò cao, thời gian lưu dài, môi trường kiềm và hệ thống giám sát khí thải — khiến lò xi măng trở thành một “buồng phản ứng” đặc biệt để xử lý triệt để rác khó tái chế, kể cả một phần chất thải nguy hại.
Cần chuẩn mực giám sát nghiêm ngặt
Tháng 8/2025, Bộ Nông nghiệp và Môi trường ban hành tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia mới về đồng xử lý chất thải trong lò xi măng, trong đó có rác thải nhựa, yêu cầu chỉ đồng xử lý trong lò quay khô dưới áp suất âm và kiểm soát khí thải chặt chẽ, có hiệu lực từ 9/2/2026.
Ở cấp địa phương và doanh nghiệp, PGS.TS Lương Đức Long — Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Xi măng Việt Nam cho rằng, điểm nghẽn lớn nhất là chuỗi cung ứng rác ổn định và đồng nhất: rác phải được phân loại và tiền xử lý để đáp ứng yêu cầu kỹ thuật của lò nung, trong khi nhiều nơi còn thiếu đơn vị chuyên trách khâu này. Ngoài ra, cơ chế chi trả chi phí xử lý rác khi đưa vào quá trình sản xuất xi măng vẫn chưa rõ ràng, khiến doanh nghiệp chưa mạnh dạn đầu tư thiết bị, logistics và dây chuyền tiền xử lý.
Trên thế giới, đồng xử lý rác — nhất là nhựa — đôi khi vấp phải lo ngại về dioxin/furan và minh bạch giám sát. Một nghiên cứu tổng hợp trên 14 lò nung kiểu mới cho thấy nồng độ dioxin khi có và không có đồng xử lý gần như tương đương, trung bình khoảng 0,0097–0,012 ng I-TEQ/Nm³ — nằm trong ngưỡng cho phép. Kết quả này củng cố thêm phát biểu của TS. Karstensen về việc không làm tăng dioxin khi tuân thủ đúng kỹ thuật.
Tuy vậy, một số chuyên gia quốc tế cảnh báo về khoảng trống giám sát thực thi: “Gần như không ai thực sự giám sát phát thải… kiểm tra dioxin ở các cơ sở đồng xử lý rất hiếm do chi phí,” một điều tra năm 2025 về thị trường tín chỉ nhựa đã nêu. Dù bối cảnh chính của bài báo là Campuchia và một số nước Đông Nam Á, thông điệp về tính đáng tin cậy của đo kiểm, báo cáo và kiểm định độc lập vẫn rất đáng để các địa phương, doanh nghiệp ở Việt Nam tham khảo khi mở rộng mô hình.
Trong số các quốc gia trên thế giới, Na Uy đã có hơn 30 năm ứng dụng đồng xử lý trong lò xi măng, xử lý cả chất thải hữu cơ nguy hại — một kinh nghiệm giá trị cho các nền kinh tế đang chuyển dịch theo hướng kinh tế tuần hoàn và mục tiêu Net Zero.
Đồng xử lý rác nhựa trong lò xi măng không phải “tấm vé miễn phí”, nhưng chắc chắn là mảnh ghép lớn của bức tranh kinh tế tuần hoàn và chuyển dịch năng lượng trong ngành xi măng Việt Nam. Pháp lý đã có, thực chứng đã đủ, vấn đề còn lại là chuẩn hóa, minh bạch và kỷ luật thực thi. Khi đó, bài toán “hai đích” — giảm rác nhựa và giảm tiêu thụ than/CO₂ — sẽ không chỉ là khẩu hiệu, mà trở thành kết quả đo đếm được trên từng tấn clinker.
(VNF) - Chất thải rắn xây dựng (CTRXD) đang trở thành bài toán nan giải đối với các đô thị lớn tại Việt Nam. Tuy nhiên, với cách tiếp cận mới theo công thức liên kết giữa Nhà nước – Nhà khoa học – Nhà doanh nghiệp, CTRXD không còn chỉ là gánh nặng môi trường mà có thể trở thành nguồn tài nguyên giá trị phục vụ phát triển bền vững.
(VNF) - Dù được đánh giá là giải pháp tối ưu để giải quyết đồng thời các bài toán môi trường và năng lượng, các dự án xử lý chất thải rắn sinh hoạt phát điện tại Việt Nam vẫn đang “mắc kẹt” giữa mê cung pháp lý.
(VNF) - Các doanh nghiệp như SCG, FiCO, INSEE hay Xuân Thành đã bước đầu đưa ra thị trường các sản phẩm xi măng xanh phát thải thấp, mở ra kỳ vọng định hình lại chuỗi giá trị xây dựng theo hướng bền vững hơn.
(VNF) - Ông Phạm Đại Dương, Phó Trưởng Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương nhấn mạnh để hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng hai con số giai đoạn 2026–2030, Việt Nam cần một cú hích đổi mới mô hình tăng trưởng, trong đó kinh tế tuần hoàn giữ vai trò then chốt, gắn với chuyển đổi xanh, chuyển đổi số và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực.
(VNF) - UNDP cho rằng tăng trưởng cao sẽ khó duy trì bền vững nếu nền kinh tế vẫn vận hành chủ yếu theo mô hình tuyến tính. Trước sức ép ngày càng lớn từ cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm và biến đổi khí hậu, kinh tế tuần hoàn cần được thúc đẩy như một hướng đi chiến lược, giúp Việt Nam vừa giữ nhịp tăng trưởng nhanh, vừa nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực và sức chống chịu của nền kinh tế trong dài hạn.
(VNF) - Theo Phó Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế - NHNN, Nghị định hỗ trợ lãi suất 2%/năm cho doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh và cá nhân thực hiện các dự án xanh, tuần hoàn, áp dụng tiêu chuẩn ESG dự kiến sẽ có hiệu lực vào đầu năm 2026.
(VNF) - Theo Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Ngọc Cảnh, để thực hiện các mục tiêu tăng trưởng xanh và phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, Việt Nam cần khoảng 670 – 700 tỷ USD vốn đầu tư dài hạn, đòi hỏi phải huy động và đa dạng hóa mạnh mẽ các nguồn lực tài chính ngoài ngân sách, đặc biệt từ tín dụng xanh, thị trường vốn và khu vực tư nhân.
(VNF) -TS Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách của Thủ tướng Việt Nam khẳng định. trong bối cảnh nhu cầu vốn cho chuyển đổi xanh, đổi mới công nghệ ngày càng lớn, Việt Nam cần duy trì tốc độ tăng vốn đầu tư khoảng 10% mỗi năm, đồng thời nghiên cứu thành lập Quỹ khẩn cấp quốc gia để ứng phó với các rủi ro.
(VNF) - Đại sứ Canada tại Việt Nam Jim Nickel cho rằng, Việt Nam đang hội tụ nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh mẽ thị trường đầu tư tác động, từ tốc độ tăng trưởng kinh tế, cam kết chính sách về phát triển bền vững đến hệ sinh thái doanh nghiệp tạo tác động ngày càng trưởng thành.
(VNF) - Nhựa Bình Thuận phát hành 260 tỷ đồng trái phiếu xanh kỳ hạn 7 năm, được GuarantCo bảo lãnh thanh toán, tài trợ dự án nhà máy nhựa Hưng Yên và pallet tái chế.
(VNF) - Giới chuyên gia khẳng định, Việt Nam đang ở thời điểm then chốt để trở thành trung tâm đầu tư tác động của khu vực ASEAN, với 17,5 triệu đô la Canada (tương đương 12,5 triệu USD) vốn tư nhân đã được huy động thông qua Dự án Sẵn sàng cho Đầu tư Tác động tại Việt Nam (IIRV) do Quỹ Đầu tư Tác động (IIX) thực hiện.