Luật sư kiến nghị giải mật hồ sơ vụ ông Nguyễn Hữu Tín

Hoàng Yến - 23/10/2019 20:31 (GMT+7)

Luật sư đề nghị tòa án có hướng dẫn cụ thể để thống nhất việc sử dụng các tài liệu, văn bản đóng dấu mật (chưa được giải mật) trong quá trình xét xử vụ án liên quan đến cựu phó chủ tịch UBND TP. HCM Nguyễn Hữu Tín.

VNF
Ông Nguyễn Hữu Tín

Nguồn tin của PV PLO cho biết các luật sư bào chữa trong vụ ông Nguyễn Hữu Tín cùng đồng phạm vụ giao đất số 15 Thi Sách cho công ty của Vũ "nhôm" vừa có nhiều văn bản kiến nghị gửi đến toà án.

Trước đó, TAND TP. HCM đã tiếp nhận hồ sơ truy tố từ VKS chuyển qua, đang thụ lý xem xét và chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử. VKS truy tố cựu phó chủ tịch UBND TP. HCM Nguyễn Hữu Tín, Đào Anh Kiệt (cựu giám đốc Sở TN&MT TP. HCM), Trương Văn Út (cựu phó trưởng Phòng quản lý đất, Sở TN&MT TP. HCM), Lê Văn Thanh (cựu phó chánh Văn phòng UBND TP. HCM), Nguyễn Thanh Chương (cựu trưởng Phòng đô thị, Văn phòng UBND TP. HCM) cùng về tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí (theo khoản 3 Điều 219 BLHS, khung hình phạt từ 10 đến 20 năm tù). 

Quá trình tham gia vụ án từ giai đoạn điều tra đến nay, các luật sư cho rằng nhiều vấn đề chưa được làm rõ nên kiến nghị toà án trả hồ sơ. Trong đó, luật sư nhấn mạnh về kết luận giám định tư pháp sử dụng trong hồ sơ là chưa làm rõ và không đúng sự thật khách quan dẫn đến nội dung của cáo trạng truy tố các bị cáo chưa chính xác, thiếu căn cứ.

Cạnh đó, có luật sư đề nghị toà xem xét tính pháp lý của các tài liệu, văn bản mật trong vụ án để yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải mật nhằm phục vụ cho quá trình xét xử. Theo luật sư, tất cả các tài liệu, văn bản có trong hồ sơ của vụ án, bao gồm cả các tài liệu mang dấu “mật” buộc phải được công khai tại phiên tòa để làm rõ sự thật khách quan của vụ án nhằm làm căn cứ cho HĐXX nhận định và tuyên án.

Luật sư viện dẫn theo Điều 25 BLTTHS 2015 thì “Tòa án xét xử công khai, mọi người đều có quyền tham dự phiên tòa, trừ trường hợp do Bộ luật này quy định. Trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người dưới 18 tuổi hoặc để giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự thì Tòa án có thể xét xử kín nhưng phải tuyên án công khai”.

Như vậy, khi phiên tòa được xét xử công khai, nhiều người tham dự phiên tòa thì các tài liệu, văn bản mật sẽ bị tiết lộ. Ngoài ra, việc xét xử công khai là hành vi tự động giải mật đối với các tài liệu, văn bản mật có trong vụ án. Trong trường hợp này, người bào chữa có thể sử dụng công khai các tài liệu có trong vụ án mà không vi phạm Pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước.

Còn đối với trường hợp tòa án xét xử kín và tuyên án công khai, người bào chữa song song đó phải thực hiện hai quyền và nghĩa vụ mà pháp luật hình sự quy định. Cụ thể là không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết khi thực hiện bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân (điểm e khoản 2 Điều 73 BLTTHS 2015).

Đồng thời người bào chữa có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị buộc tội vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo; (Điều 26 và điểm a khoản 2 Điều 73 BLTTHS 2015).

Như vậy, người bào chữa có nghĩa vụ đồng thời có quyền được đưa ra các chứng cứ, được sử dụng các tài liệu có trong hồ sơ (kể cả các tài liệu mật) để làm rõ sự thật khách quan của vụ án nhưng tuyệt đối không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết khi thực hiện bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước…

Từ đó, luật sư đề nghị cơ quan xét xử có hướng dẫn cụ thể để thống nhất trong việc sử dụng các tài liệu, văn bản mật (chưa được giải Mật) đối với người bào chữa trong quá trình xét xử vụ án. Từ đó, người bào chữa có các hành vi tố tụng hợp pháp tương ứng đối với cả hai hình thức xét xử công khai và xét xử kín. Cụ thể, về hình thức, cách thức, phạm vi sử dụng… (như công khai nêu tên văn bản, trích dẫn văn bản tại tòa…).

Theo PLO
Cùng chuyên mục
Tin khác