Thị trường

Hàng loạt tín hiệu xấu trong phát triển doanh nghiệp Việt

(VNF) – Hiệu quả sử dụng lao động, sử dụng vốn rất thấp, số lượng doanh nghiệp giải thể tăng cao, năng lực quản trị hạn chế, lép vế trước các doanh nghiệp FDI… là những tín hiệu xấu trong phát triển doanh nghiệp hơn 1 năm qua.

Hàng loạt tín hiệu xấu trong phát triển doanh nghiệp Việt

Phát triển doanh nghiệp Việt Nam đang có nhiều tín hiệu không bền vững

Theo VCCI, trong năm 2016, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới đạt mức kỷ lục với 110,1 nghìn doanh nghiệp với tổng vốn đăng ký là 891,1 nghìn tỷ đồng (tăng 16,2% về số doanh nghiệp và tăng 48,1% về số vốn đăng ký so với năm 2015).

4 tháng đầu năm 2017 đã có thêm 39.580 doanh nghiệp mới thành lập, nâng tổng số doanh nghiệp đã đăng ký thành lập tính đến 30/4/2017 lên con số 1.09 triệu.

Đáng chú ý là số lượng doanh nghiệp ngừng hoạt động hoặc giải thể trong năm 2016 đã giảm đáng kể so với năm 2015 với 73.145 doanh nghiệp (giảm 9,5% so với năm 2015).

Ngoài mức tăng trưởng đều về số lượng doanh nghiệp đang hoạt động, các yếu tố tích cực khác là chỉ số tăng trưởng dương về tổng nguồn vốn, số lượng lao động tương đối ổn định trong giai đoạn 2007-2015.

Tuy nhiên, VCCI nhận định tình hình phát triển doanh nghiệp Việt Nam vẫn đang có rất nhiều tín hiệu xấu.

Một là hiệu quả sử dụng lao động, trong giai đoạn 2007-2015, hiệu quả này không những không được cải thiện nhiều mà còn giảm đi, từ 17,3 lần năm 2007 xuống còn 14,2 lần năm 2015.

Hiệu quả sử dụng nguồn vốn của doanh nghiệp cũng ngày càng giảm. Tỷ lệ doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ đã tăng cao trở lại trong giai đoạn 2011-2015 với mức trung bình khoảng 40,9%. Hiệu suất sinh lợi trên tài sản của các doanh nghiệp trong nền kinh tế giảm từ 6,6% năm 2012 xuống còn 3,2% năm 2015.

Hàng loạt tín hiệu xấu trong phát triển doanh nghiệp Việt ảnh 1

Hiệu quả sử dụng lao động, sử dụng vốn của các doanh nghiệp Việt rất thấp

Dự cảm của doanh nghiệp năm 2017 về mức cải thiện về "Lợi nhuận trên một đơn vị sản phẩm" hiện đang ở mức thấp nhất so với các chỉ số khác (năng suất lao động, tổng doanh số.. )  cho thấy hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp Việt Nam vẫn đang là một vấn đề lớn khi các sản phẩm Việt Nam sản xuất chưa tạo ra được giá trị gia tăng cao.

Điểm đáng quan ngại là trong các tháng đầu năm 2017, số lượng doanh nghiệp thành lập mới tuy có tăng nhưng số lượng doanh nghiệp ngừng hoạt động và giải thể bằng khoảng 1/2 so với số lượng doanh nghiệp mới thành lập.

Về thực chất, quy mô doanh nghiệp không có nhiều cải thiện, số lao động trung bình trên một doanh nghiệp dao động khoảng 30 người- thấp hơn rất nhiều so với tiêu chí doanh nghiệp nhỏ (dưới 50 lao động).

Đặc biệt là liên tục trong ba năm liền (từ 2014 – 2016), khối các doanh nghiệp trong nước liên tục bị lép vế so với khối doanh nghiệp ngoại và xuống dốc trên cả 3 phuơng diện. Một là bất luận cán cân thương mại của cả nước thế nào thì doanh nghiệp trong nước triền miên nhập siêu; hai là tỷ trọng trong kim ngạch xuất khẩu teo tóp dần chỉ còn chiếm 28,4 % trong năm 2016; ba là tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của khối doanh nghiệp trong nước luôn thấp hơn so tốc độ tăng trưởng chung, năm 2016 là 4,8% (so với tốc độ chung là 8,6%).

Do quy mô doanh nghiệp quá nhỏ và thiếu các doanh nghiệp đầu tàu nên ngành công nghiệp hỗ trợ vẫn phát triển ì ạch. Các doanh nghiệp FDI chủ yếu nhập các linh kiện và mua nguồn nguyên liệu chủ yếu từ nước ngoài hoặc từ mạng lưới sẵn có, "góp phần" đáng kể cho việc thâm hụt cán cân thương mại và chuyển giá.

Nghịch lý là tỷ lệ doanh nghiệp FDI thua lỗ vẫn cao nhất so với khối doanh nghiệp nhà nước và ngoài nhà nước, nhưng các nhà đầu tư vẫn coi Việt Nam là địa điểm đầu tư hấp dẫn và các chỉ số về hiệu suất sinh lời trên tài sản của khu vực FDI vẫn là cao nhất so với các khu vực doanh nghiệp còn lại.  

Năng lực quản trị doanh nghiệp, quản trị công ty của các doanh nghiệp Việt Nam còn rất hạn chế. Sự yếu kém về quản trị cũng làm cho doanh nghiệp Việt Nam "chậm lớn", đông về số lượng, nhưng yếu kém về chất lượng.

Việc Việt Nam mới có khoảng 700 doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán và với việc áp dung các thực tiễn tốt về quản trị công ty ở mức rất hạn chế so với ASEAN 4  đang là một thách thức lớn để các doanh nghiệp Việt Nam xây dựng được niềm tin đối với các nhà đầu tư, đối tác kinh doanh của mình và phát triển thương hiệu.

"Nguyên nhân của những hạn chế trong phát triển doanh nghiệp như đã nêu trên có thể xuất phát từ sự yếu kém trong phát triển của các thị trường: thị trường các yếu tố (đất đai, lao động, công nghệ, tài chính), thị trường hàng hóa (hàng hóa tiêu dùng và hàng hóa công nghiệp).

"Nghị quyết 35/ NQ-CP là một trong những công cụ hỗ trợ thúc đẩy doanh nghiệp tham gia và hoạt động trên các thị trường này một cách hiệu quả, tuy nhiên với thời gian 1 năm thực hiện, khó có thể đưa ra kết luận chính xác về tác động của nó tới kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Kết quả tích cực ban đầu có thể nhìn thấy đó là Nghị quyết 35/ NQ-CP đã tạo niềm tin của doanh nghiệp vào thị trường", VCCI nhận định.

Tin mới lên