Mưa như trút nước, đường phố Đà Nẵng bị ngập sâu
(VNF) - Mưa lớn kéo dài nhiều giờ liền khiến nhiều tuyến đường trên địa bàn TP. Đà Nẵng ngập nặng. Học sinh phải nghỉ học, nhiều cơ quan cũng cho người lao động nghỉ làm.
Theo tin từ Ban Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cán bộ Trung ương, ông Đỗ Mười, nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, sau một thời gian lâm bệnh nặng, mặc dù được Đảng, Nhà nước, tập thể các giáo sư, bác sỹ trong và ngoài nước tận tình cứu chữa, gia đình hết lòng chăm sóc, nhưng do tuổi cao sức yếu, ông đã qua đời hồi 23 giờ 12 phút ngày 1/10/2018, tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108.
Thông tin về lễ tang nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười sẽ được thông báo sau.
Nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười sinh ngày 2/2/1917, tại xã Đông Mỹ, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.
Năm 19 tuổi, ông Đỗ Mười đã tham gia hoạt động trong phong trào Mặt trận bình dân. Năm 1939, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương.
Năm 1941, ông bị thực dân Pháp bắt và kết án 10 năm tù giam tại Hoả Lò - Hà Nội. Tháng 3/1945, ông vượt ngục và tiếp tục hoạt động cách mạng, tham gia Tỉnh uỷ Hà Đông, trực tiếp lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Đông. Sau tháng Tám 1945 ông giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ Hà Đông.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, ông Đỗ Mười lần lượt đảm nhận các công tác khác nhau tại các tỉnh đồng bằng Bắc bộ và Liên khu III; Bí thư Tỉnh uỷ Hà Nam; Bí thư kiêm Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh Nam Định; Khu uỷ viên Khu III kiêm Bí thư Tỉnh uỷ Ninh Bình; Phó Bí thư liên Khu uỷ III kiêm Phó Chủ tlch Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu III; chính uỷ Bộ Tư lệnh Liên khu III; Bí thư Khu uỷ tả ngạn Sông Hồng kiêm Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến hành chính và Chính uỷ Bộ Tư lệnh Khu tả ngạn Sông Hồng.
Năm 1955, ông là Bí thư Thành uỷ kiêm Chủ tịch Uỷ ban quân chính thành phố Hải Phòng.
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (tháng 3/1955) ông được bầu bổ sung làm Uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá II.
Năm 1956, ông được cử giữ chức Thứ trưởng Bộ Nội thương.
Năm 1958, ông được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội thương. Ông là đại biểu Quốc hội khoá II nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà.
Tháng 9-1960 tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam, ông Đỗ Mười được bầu là Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Từ năm 1961 đến 1969, ông lần lượt đảm nhiệm các chức vụ: Chủ nhiệm Ủy ban Vật giá nhà nước, Trưởng phái đoàn thanh tra của Chính phủ.
Từ 1969 đến 1971 ông được cử giữ chức Phó Thủ tướng, Chủ nhiệm Văn phòng Kinh tế Phủ Thủ tướng.
Năm 1971, ông được bầu là đại biểu Quốc hội khoá IV, được Quốc hội bầu giữ chức Phó Thủ tướng, Chủ nhiệm Uỷ ban kiến thiết cơ bản. Từ tháng 6/1973 đến tháng 11/1977 ông được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Xây dựng, đại biểu Quốc hội khoá V, VI.
Tháng 12/1976 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, ông Đỗ Mười được bầu vào Ban Chấp Chấp hành Trung ương và Uỷ viên dự khuyết Bộ Chính trị tiếp tục giữ chức Phó Thủ tướng Chính phủ nhiệm kỳ 1976-1981.
Tháng 7/1981, ông là đại biểu Quốc hội khoá VII và được bầu giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tháng 3/1982 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, Uỷ viên Bộ Chính trị tiếp tục giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Tháng 12/1986, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trưng ương, Uỷ viên Bộ Chính trị và Thường trực Ban Bí thư. Ông là đại biểu Quốc hội khoá VIII.
Tháng 6/1988, Quốc hội khoá VIII bầu ông giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII và VIII ông Đỗ Mười được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, Uỷ viên Bộ Chính trị, giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (6/1991 - 12/1997). Ông là đại biểu Quốc hội khoá IX.
Tháng 12/1997, ông Đỗ Mười được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 4 (khoá VIII) được cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
(VNF) - Mưa lớn kéo dài nhiều giờ liền khiến nhiều tuyến đường trên địa bàn TP. Đà Nẵng ngập nặng. Học sinh phải nghỉ học, nhiều cơ quan cũng cho người lao động nghỉ làm.