'Thăm' khu đất xây 365 căn nhà ở xã hội ngay trong nội đô Hà Nội
(VNF) - Dự án nhà ở xã hội NO1 thộc Khu đô thị mới Hạ Đình, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân và xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.
-Bên cạnh những con số tích cực của nền kinh tế thì vẫn có một số điều thực sự như kỳ vọng?. Đó là những vấn đề gì, thưa ông?
PGS. TS Đinh Trọng Thịnh: Đầu tiên, tốc độ giải ngân vốn đầu tư công tương đối chậm, mãi đến cuối tháng 8, đầu tháng 9, việc giải ngân đầu tư công mới được thúc đẩy mạnh mẽ. Do đó, đến thời điểm hiện tại, việc thực hiện giải ngân vốn đầu tư công mới chỉ đạt được khoảng 70. Rõ ràng, đầu tư công được giải ngân chậm đã kìm hãm tốc độ phát triển của nền kinh tế một cách tương đối. Nếu như trước đó, vào thời điểm đầu năm, giải ngân vốn đầu tư công được khai thông, chắc chắn các con số tăng trưởng kinh tế sẽ còn cao hơn nữa.
Cùng với đó, việc đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa trong năm 2022 tương đối tốt. Ước tính kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 372,5 tỷ USD, tăng 10,6% so với năm trước. Song nếu nhìn cụ thể vào tình hình các tháng sẽ thấy, từ tháng 10/2012, tăng trưởng xuất khẩu chậm dần, đây là vấn đề chúng ta đang cần phải lo lắng.
Ngoài ra, việc thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài ước đạt gần 27,72 tỷ USD, giảm 11% nếu so với lượng vốn FDI thu hút trong năm 2021. Tuy nhiên, vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam được giải ngân tăng mạnh trong năm 2022, ước đạt gần 22,4 tỷ USD, khoảng 14%. Như vậy, những con số này cho thấy sự nỗ lực rất lớn của Việt Nam trong bối cảnh kinh tế thế giới trì trệ, tổng nguồn vốn FDI trên thế giới sụt giảm mạnh.
Và cuối cùng, tính chung năm 2022, bình quân một tháng có 11,9 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường. Chuyện doanh nghiệp tham gia hay rút lui khỏi thị trường là điều hết sức bình thường. Tuy nhiên, khi con số doanh nghiệp rời bỏ thị trường quá lớn cũng trở thành vấn đề cần quan tâm.
- Nguyên nhân nào khiến các chỉ số trên chưa đạt được như kỳ vọng, thưa ông?
Thứ nhất, lạm phát trên thế giới tăng rất cao, lập đỉnh sau 40 năm, từ đó tác động tới giá cả đầu vào của thị trường Việt Nam.
Thứ hai, các ngân hàng trung ương trên thế giới đã có hơn 340 lần tăng lãi suất. Bởi vậy, lãi suất trên thế giới tăng nhanh, kéo theo lãi suất của Việt Nam cũng phải tăng cao gây áp lực lên chi phí vốn.
Thứ ba, chuỗi cung ứng đứt gãy và tạo ra chi phí sản xuất cao, nguồn cung ứng gặp khó khăn, kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại, nhu cầu cho sản xuất và tiêu dùng giảm sút, hoạt động thương mại quốc tế sụt giảm. Nhiều doanh nghiệp, ngành nghề sụt giảm các đơn hàng xuất khẩu. Do đó, tình hình sản xuất, kinh doanh trong nước cũng gặp nhiều khó khăn trong phục hồi và tăng trưởng.
Thứ tư, giá cả trên thế giới tăng cao, đặc biệt giá vật liệu xây dựng tăng 40% liên tục trong 6 tháng. Giá tăng mạnh như vậy nhưng chính quyền địa phương và các Bộ, ngành, những người được phân giao xem xét tính toán định mức trong đầu tư công lại không thay đổi kịp thời, vì vậy chủ đầu tư không dám thay đổi dự toán của dự án, khiến các đơn vị thi công xây dựng cũng không dám thi công, khiến tốc độ giải ngân đầu tư công cũng chậm lại.
- Trong bối cảnh đó, đâu nhân tố tác động tới kinh tế Việt Nam trong năm 2023, thưa ông?
Các nhân tố lớn sẽ có tác động rất lớn đến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam gồm cả các nhân tố khách quan và chủ quan.
Năm 2023 lạm phát của nền kinh tế thế giới dù có xu hướng hạ nhiệt nhưng được dự báo vẫn ở mức cao khoảng 6,5%, từ đó tác động rất lớn đến tới giá cả hàng hóa và tình hình lạm phát trong năm 2023 của Việt Nam. Bởi Việt Nam là quốc gia có độ mở cửa hội nhập sâu rộng và toàn diện với thế giới và có gần 40% nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất nhập khẩu từ các quốc gia trên thế giới nên khả năng nhập khẩu lạm phát thông qua nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu đầu vào rất lớn.
Các ngân hàng trung ương các nước trên thế giới đã có hơn 340 lần tăng lãi suất điều hành. Đặc biệt là trong năm 2022 FED đã nâng lãi suất lên 5%-5,25%, Ngân hàng trung ương của nhiều nước cũng nâng lãi suất để chống lạm phát, do vậy, lãi suất trên thế giới tăng nhanh. Để đảm bảo tính cạnh tranh trong thu hút đầu tư quốc tế, NHNN Việt Nam cũng đã 2 lần tăng lãi suất điều hành gây áp lực lên chi phí vốn, tạo sự trì trệ trong sản xuất và tăng áp lực lạm phát.
Do xung đột Ucraine tiếp tục kéo dài, Mỹ và phương Tây đẩy mạnh chính sách trừng phạt và áp trần giá dầu, trần giá khí đốt với Nga và việc Nga ngừng bán dầu, khí đốt cho các quốc gia không thân thiện cùng với việc OPEC tiếp tục cắt giảm sản lượng có thể đẩy giá dầu và khí đốt và các nguyên vật liệu trong năm 2023 tăng cao. Hơn nữa, do việc các bao vây, cấm vận với Nga, nước Nga đã không cho phép các phương tiện giao thông của các nước không thân thiện đi qua lãnh thổ Nga, làm cho câc chuỗi cung ứng đứt gãy, chi phí vận tải, logicstic tăng cao và làm cho nguồn cung ứng gặp khó khăn, chi phí sản xuất cao. Do đó, tình hình sản xuất kinh doanh trong nước cũng gặp nhiều khó khăn trong phục hồi và tăng trưởng.
Tác động từ ảnh hưởng của các yếu tố đầu vào và lạm phát, các tổ chức quốc tế dự báo năm 2023 nền kinh tế thế giới chỉ tăng trưởng khoảng 2,2%-2,5% (so với mức 3,1% của năm 2022). Lạm phát đã tăng lên mức cao nhất trong nhiều thập kỷ, buộc các chính phủ phải thắt chặt chính sách tiền tệ. Lạm phát cùng với việc các Chính phủ cắt giảm các hỗ trợ tài chính liên quan đến đại dịch Covid-19 khiến các hộ gia đình siết chặt chi tiêu. Việc nhập khẩu và tiêu thụ hàng hóa giảm sút sẽ tạo áp lực lớn đến các DN sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam.
Việc Chính phủ Trung Quốc dần dỡ bỏ lệnh phong tỏa để phòng chống đại dịch Covid-19 có thể làm sản xuất tăng trưởng, tăng sức ép về giá cả xăng dầu, nguyên liệu đầu vào cho sản xuất của thế giới và gia tăng áp lực lạm phát. Đồng thời, do cơ cấu sản xuất và xuất nhập khẩu hàng hóa của Trung Quốc tương đồng với Việt Nam, nhưng trình độ công nghệ cao hơn và quy mô sản xuất lớn hơn nên sẽ tạo áp lực cạnh tranh lên nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Trong năm 2022 chỉ số VNIndex của thị trường chứng khoán Việt Nam đã có sự giảm sút mạnh, giảm 33,68% so với cuối năm 2021; thị trường trái phiếu DN phát hành riêng lẻ cũng sụt giảm hơn 28,5% so với cùng kỳ 2021 đang gây khó khăn cho nguồn cung vốn cho sản xuất và tạo áp lực tăng lãi suất vay nợ, gây khó khăn cho việc tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp.
- Xin được hỏi cụ thể hơn về nhân tố thúc đẩy, đâu sẽ là những yếu tố hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng 2023, thưa ông?
Từ quan sát cá nhân, tôi nhận thấy có một số nhân tố có thể hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng năm 2023 của nền kinh tế Việt Nam.
Trước hết, nền kinh tế Việt Nam đã thích ứng với trạng thái vừa chung sống với dịch bệnh, vừa đẩy mạnh sản xuất, đã phục hồi mạnh mẽ trong năm 2022 và sẽ tiếp tục thích ứng với các biến động kinh tế - xã hội trong năm 2023.
Bên cạnh đó, lãi suất huy động và lãi suất cho vay của các NHTM trong thời gian qua có xu hướng tăng cao. NHNN đã có biện pháp cung ứng vốn giá rẻ với thời gian tương đối dài cho các NHTM, cùng với các yêu cầu để các NHTM cắt giảm chi phí nhằm ổn định và hạ thấp mặt bằng lãi suất của nền kinh tế để hỗ trợ các DN trong nền kinh tế hồi phục và phát triển.
Ngoài ra, trong năm 2022, Việt Nam đã hoàn thiện cơ chế chính sách và cơ cấu bộ máy của thị trường chứng khoán và các quy định pháp lý cho hoạt động phát hành trái phiếu riêng lẻ và phát hành trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường tài chính quốc tế để đáp ứng nhu cầu cung cấp vốn vay trung và dài hạn.
Theo đó, ngày 11/12/2021, Bộ Tài chính đã tổ chức Lễ ra mắt Sở Giao dịch Chứng khoán (GDCK), Tổng công ty Lưu ký và Bù trừ chứng khoán Việt Nam (VSDC) đã chính thức đi vào hoạt động. Đồng thời, Bộ Tài chính được giao việc xem xét, sửa đổi Nghị định 65/2022/ NĐ-CP vừa ban hành ngày 16/09/2022 cho phù hợp với thực tiễn. Đây sẽ là cơ sở để giúp các doanh nghiệp có thể đẩy mạnh huy động vốn trên thị trường chứng khoá, đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn giá rẻ cho hồi phục và tăng trưởng.
Hơn nữa, việc Chính phủ Trung Quốc dần dỡ bỏ lệnh phong tỏa để phòng chống đại dịch Covid-19 có thể làm sản xuất tăng trưởng, thúc đẩy mở rộng nguồn cung các nguyên vật liệu, linh phụ kiện đầu vào với giá cả hợp lý cho nền sản xuất Việt Nam. Đồng thời, thúc đẩy việc xuất khẩu hàng hóa, các linh phụ kiện của các doanh nghiệp Việt Nam với chi phí vận chuyển, logicstic ở mức thấp vào thị trường Trung Quốc.
Điều thuận lợi nữa là, tỷ giá VND ổn định so với USD, các cân đối vĩ mô ổn định, nền kinh tế tăng trưởng cao, môi trường đầu tư tiếp tục được cải thiện sẽ là điều kiện để các nhà đầu tư nước ngoài tăng cường đầu tư vào Việt Nam. Vốn FDI tăng sẽ giảm áp lực tăng tỷ giá và áp lực lạm phát của VND, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng cao hơn.
Cuối cùng không thể không nói đến, Việt Nam là quốc gia đã ký kết nhiều Hiệp định thương mại tự do với nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới trong thời gian qua đang góp phần mở rộng thị trường xuất - nhập khẩu cho các ngành sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu sẽ giúp các doanh nghiệp giảm chi phí, đẩy mạnh hoạt động sản xuất, xuất nhập khẩu.
- Vậy theo dự đoán của ông, kinh tế Việt Nam 2023 sẽ tăng trưởng ở mức bao nhiêu %?
Dự báo trong năm 2023 nếu tình hình kinh tế-xã hội của thế giới vẫn diễn biến phức tạp, lạm phát vẫn cao, giá xăng dầu, nguyên vật liệu tăng cao, kinh tế thế giới trì trệ hay suy thoái, tăng trưởng chậm, thương mại quốc tế giảm sút, kinh tế Việt Nam có thể tăng trưởng ở mức 6,2% - 6,7%.
Tuy nhiên, ở kịch bản khả quan hơn, nếu tình hình kinh tế-xã hội của thế giới được cải thiện hoặc ổn định, giá xăng dầu, nguyên vật liệu ổn định, kinh tế thế giới phục hồi tốt, doanh nghiệp Việt Nam tận dụng tốt các cơ hội, nắm bắt và thích ứng với các Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết và những thay đổi lớn trong nền kinh tế thế giới, Quốc hội và Chính phủ có các biện pháp chỉ đạo kiên quyết, linh hoạt và thích hợp, tăng trưởng kinh tế năm 2023 có thể đạt mức 6,8% - 7,5%.
- Cuối cùng, ông có khuyến nghị như thế nào để nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhanh và bền vững?
Năm 2023 dự báo nền kinh tế sẽ có không ít khó khăn do một số khu vực kinh tế lớn trên thế giới có nguy cơ suy thoái và tác động tới Việt Nam, vì vậy Quốc hội, Chính phủ cần tiếp tục bám sát các diễn biến trên thị trường để kịp thời ban hành các chính sách hỗ trợ thuận lợi cho quá trình phục hồi của doanh nghiệp.
Đầu tiên, tiếp tục giữ vững ổn định giá trị VND, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn, tạo nền tảng cho phục hồi và phát triển bền vững của nền kinh tế. Tăng trưởng kinh tế sẽ là nhân tố hỗ trợ đắc lực cho việc giữ ổn định nền kinh tế, giúp tránh được tâm lý hoài nghi của các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư, đẩy mạnh hoạt động đầu tư phát triển của xã hội.
Tiếp đó, cần đẩy mạnh công tác nội địa hóa nguồn nguyên liệu, tức là tận dụng tối đa những nguyên liệu đầu vào có sẵn trong nước để sản xuất hàng hóa thay vì phụ thuộc vào các thị trường nhập khẩu từ nước ngoài.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần tăng cường việc nắm bắt và đẩy mạnh hoạt động tiêu dùng trên thị trường nội địa để giảm chi phí vận chuyển và đáp ứng nhu cầu khi dân số Việt Nam là hơn trăm triệu dân, thu nhập đang tăng nhanh và nhu cầu tiêu dùng trong nước đang gia tăng.
Ngoài ra, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công ngay từ tháng đầu, quý đầu năm 2023, bởi trong năm này vốn đầu tư công cần giải ngân là rất lớn.
Đây là động lực tăng trưởng quan trọng của nền kinh tế trong năm 2023 khi số vốn đầu tư công hơn 700.000 tỷ đồng cùng với vốn đầu tư từ Chương trình hồi phục và phát triển kinh tế cũng khá cao. Tăng giải ngân đầu tư công chính là giải pháp để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.
-Trân trọng cảm ơn ông!
(VNF) - Dự án nhà ở xã hội NO1 thộc Khu đô thị mới Hạ Đình, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân và xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.