Bài dự thi Đánh thức những miền đất

Tiếng lặng thầm của đất

Ngọc Tấn - 27/07/2025 07:30 (GMT+7)

(VNF) - Từ một vùng đất nghèo khó, Nông trường Cao su Chư Prông đã vươn lên mạnh mẽ nhờ niềm tin, ý chí và tâm huyết của những con người tiên phong.

Trụ sở của Nông trường Cao su Thống Nhất - văn phòng Giám đốc Nông trường Cao su Chư Prông xưa, trừ các phương tiện làm việc, hình hài của nó vẫn nguyên như cũ. Tự dưng tôi cứ bần thần ngó nghiêng căn nhà… Giám đốc Nguyễn Cửu Tư vẫn như đứng trước mắt tôi, gầy guộc trong bộ quần áo đại cán; mớ tóc rậm, vầng trấn thấp vuông vức trên đôi mắt luôn cười…

Nhìn sang trụ sở mới bề thế những tòa ngang dãy dọc tôi bỗng nẩy ra một ý nghĩ hoài cổ: Cứ để nguyên căn nhà này trong khuôn viên. Nó sẽ là một chứng tích có giá để minh họa thêm cho những gì được trưng bày trong ngôi nhà truyền thống mới dựng kia…

''Vàng trắng'' trên đất Chư Prông

Sở dĩ cái ý tưởng hoài cổ ấy nảy ra là bởi tại căn nhà này, biết bao sự kiện đã xãy ra với công ty trong buổi đầu gian khó. Với riêng tôi cũng đã có một kỷ niệm khó quên… Vào một đêm mưa gió tầm tã – đâu như sau ngày thành lập nông trường độ một, hai năm.

Tại căn nhà này, chúng tôi gồm mấy anh em làm báo địa phương và mấy vị lãnh đạo ngồi uống rượu. Rượu ấy chắc chẳng ai ngờ tới: nó là mít chín ủ với men rồi vắt ra. Chính xác thì nó là nước quả nhưng chúng tôi cứ cho là rượu vậy.

Và thức nhắm – ấy là mối rang. Tôi chưa bao giờ được thưởng thức một tiệc rượu kỳ lạ như vậy. Mà lạ, rượu ấy cũng say. Một cảm giác nhè nhẹ, lâng lâng rất dễ chịu. “Tiệc” kéo dài gần nửa đêm. Chịu nhập cuộc với một sự thân tình hết mình như thế, hôm đó chúng tôi đã được các vị thổ lộ cho nghe những khó khăn gần như là bi đát của nông trường…

Tháng 2/1977 khi bài ca thống nhất hãy còn dư âm trên mọi miền đất nước, gần 3500 thanh niên nam nữ của tỉnh Hà – Nam – Ninh đã tiến quân lên vùng đất Chư Prông tỉnh Gia Lai – Kon Tum để xây dựng vùng kinh tế mới.

Bấy giờ huyện lị còn đóng ở Thanh An. Đường đến “vùng đất hứa” là lối mòn ngợp giữa hai bức tường cúc quỳ vàng rực. Mênh mang một màu rừng hoang lạnh. Hàng cây số không nghe một tiếng chó, tiếng gà. Ngần ấy con người bắt đầu cuộc sống gần như từ một con số không.

Nhà cất lên chưa ấm hơi người, sốt rét đã trỗi lên hoành hành. Hiểm họa kẻ thù để lại trong đất cũng trồi lên tác quái. Những dòng máu đã đổ trên triền đất đỏ. Rồi Fulro quấy nhiễu… Tiếng cười của tuổi trẻ bắt đầu thấm nỗi cô đơn. “Địa lợi” đã thế mà “thiên thời”.

Nông trường thuộc tỉnh, vốn đầu tư không kham nổi. Công nhân vài tháng liền không lương là chuyện thường… “Cao su đi dễ khó về…” cái ám khí quá khứ còn lởn vởn vận vào lúc này nghe chừng có vẻ tương đồng. Con đường hiện tại chưa có ánh sáng thì tương lai rồi sẽ về đâu?

Lễ đón nhận danh hiệu Anh hùng Lao động

Không ít người chẳng cần một sự dằn vặt. Họ chọn câu trả lời đơn giản là trốn khỏi cuộc sống mà họ cho là vô vọng này. Quần chúng bỏ về, đảng viên cũng bỏ về. Có người còn tự tay đốt nhà mình để kiếm cớ bỏ về.

“Cho nó tan nát luôn rồi về”, họ nói một cách hả hê và nhìn những người ở lại bằng một cái nhìn dè bỉu. Thuyết phục, vận động không xong, nông trường đã phải dùng đến biện pháp “rắn” là cho tự vệ ra bến xe liên tỉnh rình bắt. Nhưng “bắt” về hôm trước hôm sau họ lại lén đi.

Gần 3500 con người ra đi ban đầu, sau hơn một năm chỉ còn chưa đầy 800. Chìa khóa để phá thế trận này đang vỡ này chắc chắn là không thể bằng liệu pháp mệnh lệnh hay thuyết phục suông, vậy nó phải bắt đầu bằng cái gì ?

Bữa rượu đang vui thoắt chuyển sang không khí trầm lắng đến nặng nề. Chúng tôi ai cũng muốn lảng ra trước câu trả lời không phải của mình mà lại quá sức mình. Bên ngoài những cơn gió đuổi nhau dồn dập, chốc chốc lại hú lên man dại như cả ngàn thanh quất đang hoa tít trên không…

Chuyến đi thực tế về Công ty TNHHMTV Cao su Chư Prông của văn nghệ sĩ lần này, bỡi từng có 8 năm ăn, ở trên đất công ty nên khi nghe mọi người đề nghị xuống thực tế các nông trường thì tôi tự nhủ: đi cùng cho vui chứ mình còn lạ gì.

Thế nhưng mới chớm qua cầu Ia Đrăng tôi đã không kìm được ngạc nhiên. Con dốc lổn nhổn ngập trong bụi đỏ xưa giờ hóa phố. Những căn nhà xây kiểu Thái mái tôn đỏ chót san sát. Con đường qua Bình Giáo năm nào là một con mương sâu hoắm giờ phẳng lì giữa hai bức tường cao su mát rượi.

Từ đỉnh đồi phóng tầm mắt ra bốn phía thảy đều ngằn ngặt một chân trời cao su. Ngày xưa đất này là khu vực sân bay dã chiến của Mỹ. Chất độc hóa học đã đầu độc mảnh đất này đến mức cỏ Mỹ cũng chỉ sống oặt oẹo trong mấy tháng mùa mưa để sau đó là mênh mang một màu đất chết, vậy mà bây giờ nó đã trở thành đất vàng.

Cuộc sống đã vượt lên quá bao điều tôi nghĩ. Cái thói quen tư duy bằng những con số khô cứng đã khiến tôi quên mất rằng chúng chỉ là cái biểu đạt. Giá trị đích thực của cuộc sống chính là nơi bắt đầu nó một cách sơ khai…

Tôi lặng lẽ một mình phóng xe về nông trường Đoàn Kết…

Ở làng Quen Grai có một con người khá đặc biệt - đó là ông Puih Blang. Thời chống Mỹ, ông là xã đội trưởng – chính là người đã cặp rèn rồi đưa người anh hùng nhỏ tuổi Kpă Kơ Lơng vào du kích. Một chiều mưa tầm tã, tôi đã tìm đến nhà ông để bòn chút tư liệu cho bài báo tết.

Những ngày đầu trên vùng đất mới

Câu chuyện về Kơ Lơng hôm đó hóa ra chỉ chiếm một dung lượng nhỏ. Phần lớn thời gian tôi đã phải nghe nổi lòng đau đáu của một con người bom đạn kẻ thù không ngại mà bất lực trước nỗi khổ cực của dân làng.

Thắng Mỹ hơn hai chục năm rồi mà sao làng ông – chỉ mỗi mong ước giản dị là có đủ cơm ăn vẫn mỗi lúc mỗi xa vời. Hột lúa của ông bà sao cứ như biết chạy. Mới tuốt lúa chưa đầy tháng, làng đã có người đói rồi.

Hột lúa chạy về đâu, Puih Blang biết lắm. Cái áo, cái quần – thậm chí đến chiếc kẹo, cái bánh cho con cũng lúa. Mà hột lúa thì mỗi lúc một gầy. Nắng gió bao đời đã vắt kiệt đất.

Hột lúa chạy đi, cái xấu theo đến. Án phạt vạ càng nhiều mà ai cũng mừng (!) Ấy là cái cớ ngồi với nhau cho quên nỗi buồn. Biết mình, biết làng mỗi ngày càng bị dắt sâu vào chỗ tối mà không ai nghĩ được lối ra…

Có thể nào tin được đây từng là một ngôi làng đói rét, lạc hậu đến xót xa? Những căn nhà tôn sùm sụp rỉ rét, đen sì muội khói; những túp lều tranh trơ xương vì gió thốc đã được thay hầu hết bằng những ngôi nhà gạch.

Những lối đi khúc khuỷu, ngập ngụa phân trâu bò đã được kẻ ô bằng những con đường phẳng phiu, sạch sẽ. Vắng ngắt. Tìm mãi tôi mới gặp một người đàn ông đang trùm chăn sưởi nắng trước hiên nhà. “Hôm nay sao làng vắng thế?” – “Ra vườn cao su hết rồi. Muốn gặp ai thì phải chờ tối. Có phải như ngày trước đâu !”

Một nếp nghĩ, nếp làm mới đã đến với họ để có sự đổi thay đó… Tôi thong thả nổ máy xe và nghĩ tới một nơi cần đến – đó là làng Xom. Lý do tìm đến ấy là sự thức dậy của một kỷ niệm khá hài…

Hồi năm 1985 do kiếm được chiếc máy ảnh cà tàng, tôi thường hay la cà vào các làng đồng bào dân tộc chụp ảnh dạo. Hôm đó lang thang thế nào tôi lần đến tận làng Xom. Một nhóm thanh niên yêu cầu chụp ảnh cho họ. Tôi đồng ý với điều kiện phải trả tiền trước.

Cả nhóm thầm thì trao đổi một lúc rồi họ đưa cho tôi 12 đồng. Ảnh mỗi tấm một đồng, chụp tập thể một tấm sao lại đưa nhiều thế? Tôi được một trận cười tức ruột khi vỡ lẽ: thì ra lâu nay họ bị lừa.

Có một tay thợ ảnh ngoài huyện vẫn vào đây chụp dạo. Y không tính kiểu ăn tiền mà… tính người ăn tiền. Cứ một kiểu 1 người thì lấy 1 đồng, năm người thì 5 đồng. Y bịp: chụp nhiều người khó hơn một người. Và họ đều tin là thật!

Mà đó là làng của ông Kpă En – lúc đó là Trưởng ban dân vận Tỉnh ủy. Ông En thấy dân làng đói nghèo, lạc hậu quá đã yêu cầu Công ty đưa bằng được làng ông vào công nhân…Quen Gray đổi thay, tiếng vậy nhưng chưa thể sánh với làng Xom.

Làng đã tôn hóa, ngói hóa từ những năm 2000 nhờ năng suất mủ rất cao... Đang lớ ngớ trước khung cảnh lạ lẫm, tôi chợt nghe tiếng gọi. Một thanh niên bước ra kéo xệch tôi vào ngôi nhà đang vỡ ra vì tiếng ồn ào.

Hóa ra là một đám cưới. Cô dâu đang mặc nguyên bộ váy tầng nhưng chú rể thì đã cởi phăng com lê vì nóng. Các chàng trai Kinh ai cũng đã ngà ngà bá cổ các chàng trai Jrai hát hò.

Liếc qua, tôi biết thức ăn, thức nhắm đều nấu theo cách người Kinh. Một đám cưới soi vào đã thấy mức sống vật chất và cả “thu nhập văn hóa” nữa. Thì chính những con người đến vùng đất mới, không chỉ mang đến cho họ những đổi thay về vật chất mà cả văn hóa – văn minh…

Còn nhớ năm 2002 - thời điểm Công ty đã đứng trên thế vững vàng, chúng tôi ai cũng muốn viết một cái gì đó để ca ngợi sự vượt lên kỳ diệu này. Anh Phan Sĩ Bình, Giám đốc Công ty cười bảo: “Các ông chớ quan trọng hóa. Thời thuộc tỉnh, tiền ít thì cao su nó xấu. Giờ về Tổng công ty, được đầu tư nhiều tiền thì nó tốt chứ có gì đâu!”.

Tất nhiên là chúng tôi đều hiểu anh vừa đùa vừa thật. Cái thật thì đã rõ, còn phần đùa thì phải hiểu đấy là sự khiêm tốn. Ý anh là tránh nói về vai trò cá nhân.

Công ty cao su Chư Prông có một đội ngũ cán bộ lãnh đạo có lẽ không một đơn vị kinh tế nào ở Tây Nguyên có được – ấy là một đội ngũ trưởng thành từ gian khổ, trung thành tuyệt đối với con đường mình đã chọn.

Đặc trưng ấy như một nét văn tạo thành động lực để công ty có được cơ đồ ngày nay. Kể về họ, trước hết xin nói tới vị giám đốc đầu tiên của công ty Nguyễn Cửu Tư. Trước khi đến vùng đất mới, ông là Bí thư Đảng ủy Nông trường Đồng Giao.

Không chỉ là một trong những nông trường Quốc doanh lớn nhất miền Bắc bấy giờ, Đồng Giao còn rất đông “dân” tập kết. Ông kể: "Mỗi lần đại hội hay lễ lạt, nhìn xuống cứ thấy hội trường đỏ rực những huân chương".

Làm lãnh đạo một đơn vị lắm “công thần” như thế tất nhiên phải “cứng”. Bỡi phẩm chất ấy mà ông được tin tưởng giao nhiệm vụ dẫn cả một đoàn quân ngần ấy con người tiên phong vào vùng đất mới đầy bất trắc.

Vợ con để lại ngoài Bắc nên ông một mình “cơm niêu nước lọ”. Thú vui của ông trong những lúc rỗi rãi là sưu tầm các vị thuốc Bắc để… ai xin thì cho. Tài sản đáng giá duy nhất của ông là một chiếc đồng hồ Citizen để bàn nứt mặt kính.

Cho mãi đến lúc chuẩn bị nghỉ hưu ông mới xin miếng đất gần nông trường xây lên một căn nhà cấp bốn chừng bảy chục m2. Dù vật liệu được mua theo giá cung cấp nhưng nhà làm xong cũng không đủ tiền trả, phải “cầu cứu” vợ. Người ta kể vợ ông lúc vào thăm đã nói “Tôi tưởng anh là giám đốc thì nhà thế nào chứ thế này thì xây làm gì cho mang tiếng”!

Giám đốc Nguyễn Cửu Tư mất năm 1988 sau hơn 10 năm chống chèo trên vùng đất đầy gian khổ, lương hưu cũng chưa kịp lĩnh. Nếu Nguyễn Cửu Tư có công lớn trong thời kỳ mở đất thì Phan Sĩ Bình là người có công đưa công ty vượt qua những sóng gió của cơ chế thị trường để “bước tới đài vinh quang” giành danh hiệu “Đơn vị Anh hùng Lao động trong thời kỳ đổi mới”.

Vàng trắng trên đất bazan

Năm 1977 trong đoàn người trống dong cờ mở, hăm hở đến xây dựng vùng đất mới này có một thanh niên quê ở xã Yên Minh, huyện Yên Khánh ( Ninh Bình) đã tốt nghiệp phổ thông từ 2 năm trước.

Anh là Phan Sĩ Bình. Lúc ấy có tấm bằng tốt nghiệp lớp 10 hãy còn danh giá. Gia đình ngăn cản, bạn bè cho là dại nhưng anh vẫn quyết đi. Thực tình thì cũng có chút máu phiêu lưu của tuổi trẻ, vả chưa vướng bận gì thì cũng có đường lui…

Ấy thế mà rồi vùng đất mới cứ như có một cái gì níu chân anh… Bây giờ vẫn còn nhiều người nhớ “quyết tâm thư” nóng bỏng nhiệt huyết của anh đọc trước lễ ra quân của hàng trăm con người đang thoái chí.

Đâu phải là sự cuồng nhiệt kiểu “Hồng vệ binh”, anh đã nhận ra tiền đồ của một miền đất – dù lúc ấy anh cũng cơ khổ như ai - cũng phải trồng lúa để có cái ăn; trồng lạc để có tiền.

Nhiều lần tôi đã gặp anh tự tay đánh xe bò chở những “sản phẩm” ấy về trong ánh đêm chập chọa… Bằng nghị lực và niềm tin, bắt đầu là một công nhân, anh trải qua kế toán đội sản xuất, trưởng phòng tài vụ rồi được đề bạt Phó giám đốc công ty khi mới 31 tuổi – cán bộ trẻ nhất Tổng công ty Cao su Việt Nam lúc đó.

Năm 2000 Phan Sĩ Bình được đề bạt giám đốc cũng là lúc ngành cao su gặp thời bỉ cực. Kinh tế thế giới suy thoái khiến giá mủ cao su xuống thấp đến mức mang ra tận biên giới bán vẫn lỗ.

Giữa lúc đó thì Gia Lai lại xãy ra cuộc bạo loạn mang màu sắc chính trị của các dân tộc thiểu số. Đứng trước bao khó khăn chồng chất, Phan Sĩ Bình đã tỏ rõ bản lĩnh. Anh một mặt cho tiến hành các biện pháp để ổn định an ninh, mặt khác triển khai quyết liệt các biện pháp phát triển sản xuất đã từ lâu nung nấu.

1.200 ha cao su già cỗi được chuyển đổi chu kỳ bằng giống mới chất lượng tốt. Cùng với đó là xây dựng hệ thống quản lý chất lượng ISO đạt tiêu chuẩn quốc tế. Đặc biệt anh đã cử người đi đào tạo rồi cho mua dây chuyền sản xuất mủ latex để xuất khẩu sang Mỹ.

Trong các công ty cao su ở Tây Nguyên, duy nhất chỉ Công ty cao su Chư Prông có sản phẩm mủ cao cấp này. Nhờ đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm, lần đầu tiên công ty đã xuất khẩu trực tiếp ra thị trường nước ngoài. Để giải quyết nhu cầu việc làm và nâng cao thu nhập cho công nhân, đặc biệt là công nhân dân tộc thiểu số, Phan Sĩ Bình đã tìm mọi biện pháp để mở rộng sản xuất.

Từ diện tích cao su mới đạt 6500ha lúc mới giữ cương vị giám đốc, đến năm 2012 Phan Sĩ Bình đã đưa tổng diện tích cao su của công ty lên gần 15.000ha, trong đó có 5000ha đầu tư ở Campuchia. Có thể nói với 12 năm là giám đốc, Phan Sĩ Bình đã tạo nên một “thời kỳ hoàng kim” cho Công ty Cao su Chư Prông…

Cứ mỗi lần tiếp xúc với anh tôi lại tự hỏi: sức mạnh nào trong con người vóc dáng nhỏ bé, bề ngoài giản dị - giản dị đến mức đã không ít người nhầm với… lái xe kia ? Và tôi đã tự trả lời: Đó là sức mạnh của niềm tin. Phan Sĩ Bình và rộng ra, cả một thế hệ như anh đã tới vùng đất này.

Niềm tin đã cho họ đứng vững nhưng điều quan trọng hơn là họ biết hòa trong niềm tin của nhiều người để khi thời cơ đến thì khơi bùng nó, biến nó thành một nguồn sáng để đánh bạt bóng tối…

Chợt nghĩ trong cuộc sống bao la ai cũng chọn cho mình một hướng đi, nhưng đến được hay không thì chỉ những con người có niềm tin. Tất nhiên không phải một niềm tin mơ hồ mà là một niềm tin nhức nhối của trí tuệ…

Họ không phải là những Khoa Phụ thần thoại đuổi theo mặt trời, họ chỉ là những con người bình thường, theo đuổi một niềm tin có thật bằng trí tuệ có thật của mình…

Trên đường về trụ sở Công ty, tôi không theo con đường cũ mà rẽ ngang vào một lô cao su. Tự dưng thấy mình cần một sự tĩnh lặng… Lô cao su này hình như thuộc địa bàn đội 4.

Ngày xưa đây là cánh rừng chi chít những hố đào củ mài của đồng bào dân tộc thiểu số mỗi mùa giáp hạt. Lô cao su này cũng đang vào mùa đơm lá mới. Nhìn những thân cây đều tăm tắp, tôi biết nó được trồng vào khoảng thời gian nào…

Ngắm những tảng lá non mỡ màng xuộm lên trong nắng quái, tôi lẩn thẩn cào móng tay vào vết cạo. Những dòng nhựa li ti lập tức ứa ra…

Cây đang lắng tiếng gọi mùa hay tiếng trở mùa từ đất? Với tôi, có lẽ cây đang lắng tiếng trở mùa. “Mỗi giọt nhựa có được hôm nay phải đổi bằng nước mắt và máu của bao thế hệ”.

Ở đâu trên Cao nguyên đã có một mảnh đất thiêng hơn mảnh đất này ? Đất thiêng - tất chỉ dung nạp những ý tưởng chân chính, vị nhân sinh. Lịch sử mới non nửa thế kỷ đã chứng minh quá đủ cái triết lý nhuốm màu tâm linh ấy…

Tôi cầm chiếc lá vàng rực bất chợt sa vào tay mình, lòng bâng khuâng tưởng như đang cầm trên tay tiếng vọng của đất qua màu sương khói tháng năm.