Việt Nam chấp nhận lạm phát cao để tăng trưởng tốt hơn?

Anh Vũ - 23/01/2025 07:00 (GMT+7)

(VNF) - Những năm gần đây, thay vì neo mức 4% như trước, mục tiêu kiểm soát lạm phát theo tốc độ tăng CPI bình quân lại điều chỉnh theo hướng kiểm soát trong một khoảng dao động từ 4 - 4,5%. Điều này có hàm ý Việt Nam chấp nhận lạm phát cao hơn để tăng trưởng cao hơn?

Một thập kỷ kiểm soát tốt lạm phát

Năm 2024, Việt Nam phải đối mặt với nhiều thách thức cả trong và ngoài nước. Trên thế giới, xung đột quân sự leo thang, kinh tế toàn cầu phục hồi chậm, tỷ giá, lãi suất biến động khó lường, cùng với đó là các hiện tượng thời tiết cực đoan.

Lạm phát toàn cầu vẫn là một vấn đề đáng lo ngại, thể hiện qua việc lạm phát ở Mỹ tăng 2,7%, khu vực Euro tăng 2,2% và nhiều nước châu Á cũng có mức tăng đáng kể, như Ấn Độ (5,5%), Nhật Bản (2,9%).

Một thập kỷ kiểm soát tốt lạm phát.

Trong bối cảnh đó, Việt Nam đã kiểm soát lạm phát khá tốt. CPI tháng 12/2024 tăng 2,94% so với cùng kỳ năm trước và chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2024 tăng 3,63% so với năm 2023, đạt mục tiêu Quốc hội đề ra.

Đặc biệt, đây cũng là năm thứ 10 liên tiếp Việt Nam thành công kiểm soát lạm phát trung bình dưới 4%, điều này đã đóng góp tích cực vào sự ổn định kinh tế vĩ mô nói chung, tăng niềm tin của người dân, doanh nghiệp vào đồng nội tệ và kiến tạo môi trường kinh doanh thuận lợi.

Chỉ ra các yếu tố giúp Việt Nam kiềm chế lạm phát ở mức thấp trong một thập kỷ qua, TS. Nguyễn Đức Độ, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế - Tài chính, Học viện Tài chính phân tích:

Thứ nhất, tốc độ tăng cung tiền trong giai đoạn 2014-2023 chỉ ở mức 13,8%, thấp hơn nhiều so với mức trung bình 27,1% giai đoạn 2004-2013.

Thứ hai, lãi suất giai đoạn 2014-2024 luôn được duy trì thực dương, trung bình ở mức 3,7%/năm đối với tiền gửi kỳ hạn 12 tháng. Trong khi đó, mức lãi suất thực trung bình của giai đoạn 2004-2014 là 0%/năm. 

Thứ ba, tỷ giá USD/VND trong giai đoạn 2014-2024 cũng được duy trì ổn định hơn so với giai đoạn 2004-2014. Nếu tốc độ giảm giá của VND so với USD trong giai đoạn 2004-2014 ở mức trung bình 2,9%/năm thì trong giai đoạn 2014-2024 đã giảm xuống còn 1,6%/năm.

Theo ông Độ, tăng trưởng cung tiền thấp, lãi suất thực dương và tỷ giá ổn định là những yếu tố cơ bản để lạm phát tại Việt Nam được duy trì ổn định ở mức thấp trong 10 năm gần đây.

“Ba nhân tố này giải thích được 80% lý do lạm phát được kiểm soát 10 năm qua”, ông Độ cho hay.

Thận trọng với rủi ro lạm phát năm 2025

Dù đã đạt được những kết quả tích cực trong việc kiểm soát lạm phát trong năm 2024, song theo nhiều chuyên gia, chúng ta không thể chủ quan bởi năm 2025 vẫn còn nhiều yếu tố tiềm ẩn, gây sức ép lên chỉ số này nên cần hết sức cẩn trọng với rủi ro lạm phát.

Hết sức cẩn trọng với rủi ro lạm phát năm 2025.

Bà Nguyễn Thu Oanh - Vụ trưởng Vụ Thống kê Giá, Tổng cục Thống kê nhìn nhận, trên bình diện quốc tế, tình hình xung đột quân sự leo thang, cạnh tranh thương mại giữa các nước lớn và các hiện tượng thời tiết cực đoan đều có thể gây đứt gãy chuỗi cung ứng, làm tăng chi phí vận tải, ảnh hưởng đến giá cả hàng hóa. Ngoài ra, các chính sách thuế khắc nghiệt và bảo hộ thương mại có thể làm trầm trọng thêm căng thẳng thương mại, gây ra lạm phát mới.

Trong nước, chi phí nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu có thể tăng theo giá thế giới và biến động tỷ giá, ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm. Việc điều chỉnh giá điện, học phí, dịch vụ y tế theo hướng thị trường cũng sẽ tác động đến chỉ số giá tiêu dùng.

Chưa dừng lại ở đó, theo bà Oanh, các gói kích cầu, hạ lãi suất và đầu tư công có thể tạo áp lực lên mặt bằng giá nếu không kiểm soát tốt. Cuối cùng, giá cả thường có xu hướng tăng vào các tháng cuối năm và dịp lễ, Tết, đặc biệt là lương thực, thực phẩm. Nếu xảy ra thiên tai, dịch bệnh, tình hình có thể càng trở nên phức tạp hơn.

Nhìn nhận từ một góc độ khác, một số chuyên gia đã chỉ ra rằng, những năm gần đây, thay vì neo mức 4% như trước, mục tiêu kiểm soát lạm phát theo tốc độ tăng CPI bình quân lại điều chỉnh theo hướng kiểm soát trong một khoảng dao động từ 4-4,5%. Điều này hàm ý Việt Nam chấp nhận lạm phát cao hơn để tăng trưởng cao hơn.

Tuy nhiên, mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng không quá chặt chẽ, lý thuyết đường cong Phillips khá yếu, có thể xảy ra tình huống lạm phát tăng nhưng tốc độ tăng trưởng GDP không tăng.

Theo một số chuyên gia, chính điều này sẽ làm tăng hiệu ứng kỳ vọng lạm phát, tạo vòng xoáy giữa giá cả và tiền lương. Người lao động thỏa thuận tiền lương dựa trên mức lạm phát cao hơn giống như năm 2022, ban đầu lạm phát dựa trên cú sốc nguồn cung nhưng sau đó khi lạm phát tăng lên rất dai dẳng và khó kiểm soát.

Để đạt được mục tiêu kiểm soát lạm phát với tốc độ tăng CPI bình quân khoảng 4,5% do Quốc hội đề ra tại Nghị quyết số 158/2024/QH15 ngày 12/11/2024 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025. Theo các chuyên gia, điều hành chính sách tiền tệ phải chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm; nâng cao chất lượng tín dụng, tập trung cho sản xuất, kinh doanh và các lĩnh vực ưu tiên.

Kiểm soát chi tiêu công và thâm hụt ngân sách giúp giảm áp lực vay nợ, từ đó ổn định CPI. Quản lý giá cả các mặt hàng thiết yếu. Đẩy mạnh sản xuất và chuỗi cung ứng nội địa. Kiểm soát nhập khẩu và thúc đẩy xuất khẩu.

Bên cạnh đó, chính sách tài khóa thận trọng, hạn chế bội chi ngân sách nhà nước. Đặc biệt, Nhà nước kiểm soát giá các mặt hàng như xăng dầu, điện, thực phẩm, thuốc men để tránh tăng giá đột biến…

'Việt Nam thuộc nhóm tăng trưởng cao nhất Đông Nam Á và toàn cầu'

'Việt Nam thuộc nhóm tăng trưởng cao nhất Đông Nam Á và toàn cầu'

Tiêu điểm
(VNF) - Ngân hàng Thế giới khẳng định tăng trưởng của Việt Nam thuộc nhóm cao nhất thế giới. Đáng chú ý, trong năm 2025 được cập nhật dự báo lên 6,6%. Con số này cao hơn dự báo của tổ chức này đưa ra trước đó (6,5%) vào tháng 10/2024 và cao hơn 0,6% so với tháng 6/2024.
Cùng chuyên mục
Tin khác
Ngày vía Thần tài: Giá vàng nhẫn có nơi 'chém' tới 9,2 triệu đồng

Ngày vía Thần tài: Giá vàng nhẫn có nơi 'chém' tới 9,2 triệu đồng

(VNF) - Trong không khí sôi động của ngày vía Thần Tài, khảo sát thị trường cho thấy giá vàng nhẫn trơn dao động từ 8,77 triệu đồng đến 8,85 triệu đồng mỗi chỉ, nhưng tại một số điểm, giá lên tới 9,2 triệu đồng.