EPR - 'tấm hộ chiếu xanh' cho doanh nghiệp Việt trên thị trường quốc tế
(VNF) - Theo các chuyên gia, EPR không chỉ là công cụ quản lý môi trường mà còn là điều kiện để hàng hóa Việt Nam đáp ứng tiêu chuẩn xanh ngày càng khắt khe tại EU, Bắc Mỹ,...
- Chuyên gia: 'Không có ESG, doanh nghiệp Việt khó xuất khẩu' 23/09/2025 03:22
Từ khuyến khích đến bắt buộc
Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) là chính sách môi trường buộc doanh nghiệp chịu trách nhiệm toàn bộ vòng đời sản phẩm, kể cả khi trở thành chất thải. Nhiều quốc gia đã áp dụng EPR để kiểm soát ô nhiễm.
Theo bà Chu Thị Kim Thanh, Phó giám đốc Điều hành Công ty Cổ phần PRO Việt Nam, Liên minh Tái chế bao bì Việt Nam, EPR có ba vai trò chính. Theo đó, EPR giúp gắn trách nhiệm cho nhà sản xuất, nhập khẩu; yêu cầu nhà sản xuất và nhập khẩu chủ động chịu trách nhiệm với sản phẩm của mình sau khi bán ra thị trường. Thứ hai, EPR giúp thực hiện kinh tế tuần hoàn; tăng hiệu quả sử dụng tài nguyên, giảm chất thải, hướng tới phát triển bền vững.
Bên cạnh đó, EPR cũng giúp giảm ô nhiễm môi trường; là một công cụ để giảm ô nhiễm môi trường thông qua việc khuyến khích doanh nghiệp phải tính đến yếu tố môi trường ngay từ khâu thiết kế, sản xuất, phân phối.
Trên thế giới EPR được nhiều quốc gia áp dụng từ lâu. Tại châu Âu, EPR đã có từ những năm 1980, Mỹ và Canada có khoảng 100 mô hình EPR. “Nhật Bản và Hàn Quốc có khung vững chắc từ hơn 20 năm. Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia đang triển khai từng bước. Các quy định của EPR ở Việt Nam hiện nay tham khảo rất nhiều mô hình của Hàn Quốc và Đài Loan (Trung Quốc)”, bà Thanh cho biết.
Theo bà Thanh, tại Việt Nam, khái niệm EPR đã được nhắc đến từ lâu nhưng trước đây chỉ dừng ở mức khuyến khích, chưa mang tính bắt buộc. Từ năm 2020, khi Luật Bảo vệ Môi trường có hiệu lực, EPR trở thành quy định bắt buộc với hai nhóm trách nhiệm chính: tái chế đối với sản phẩm, bao bì có khả năng tái chế và xử lý chất thải đối với những sản phẩm, bao bì khó hoặc không thể tái chế.

Trước đó, ông Lương Chí Hiếu, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển – Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam, cho rằng việc thực hiện EPR mang lại nhiều cơ hội cho ngành giấy, vốn có tỷ lệ tái chế rất cao. EPR giúp hình thành chuỗi giá trị bền vững trong hệ sinh thái từ thu gom, phân loại đến xử lý, tái chế; đồng thời nâng cao hình ảnh doanh nghiệp như những đơn vị có trách nhiệm với kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn. Ngoài ra, EPR còn mở ra cơ hội tiếp cận các thị trường quốc tế khắt khe về môi trường như EU và Bắc Mỹ.
Đồng quan điểm, ông Hồ Kiên Trung, Phó Cục trưởng Cục Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), cho biết từ năm 2024, hàng hóa xuất khẩu phải đáp ứng tỷ lệ tái chế bắt buộc trong sản phẩm. Đến năm 2025, các mặt hàng như sắt, thép, nhôm, phân bón, xi măng… sẽ phải nâng cao tỷ lệ tái chế và xử lý để đủ điều kiện xuất khẩu.
Theo ông Trung, việc triển khai EPR là cấp thiết, vừa góp phần bảo vệ môi trường xanh – sạch, vừa giúp doanh nghiệp duy trì thị trường xuất khẩu với sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn bền vững quốc tế. “Việc thực thi EPR từ năm 2024 sẽ tạo đà cho ngành công nghiệp tái chế, đồng thời giúp doanh nghiệp duy trì xuất khẩu và đáp ứng tiêu chuẩn xanh của thị trường quốc tế”, ông nhấn mạnh.
Nhiều trở ngại khi thực thi
Việc thực thi EPR giúp doanh nghiệp nâng cao ý thức, thực hiện trách nhiệm bảo vệ môi trường một cách bài bản hơn, đồng thời đáp ứng các yêu cầu ngày càng khắt khe về “tiêu chuẩn xanh” từ thị trường quốc tế. Tuy vậy, quá trình triển khai EPR còn nhiều khó khăn. Bà Chu Thị Kim Thanh cho biết hệ thống thu gom còn yếu, các trung tâm thu hồi vật liệu gặp nhiều trở ngại. Dù quy định phân loại rác tại nguồn đã ban hành, nhưng nhiều địa phương vẫn chưa áp dụng, khiến chi phí xử lý, sơ chế tăng cao và tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm thứ cấp.
“Nếu không phân loại tại nguồn, chất lượng rác thu gom sẽ thấp, chi phí sơ chế cao và thậm chí có thể gây hại môi trường hơn là không tái chế”, bà Thanh nhấn mạnh.
Ngoài ra, số lượng cơ sở tái chế đạt chuẩn hiện còn hạn chế, trong khi khoảng 80% rác tái chế lại đến từ các đơn vị nhỏ lẻ, không có hóa đơn hợp lệ. Thực trạng này khiến doanh nghiệp tái chế gặp khó trong quyết toán chi phí thu gom, dẫn đến những thiệt hại tài chính đáng kể.
Từ góc nhìn doanh nghiệp tái chế, ông Lê Anh, Giám đốc Phát triển bền vững Công ty Nhựa tái chế Duy Tân, cho biết đơn vị đang áp dụng công nghệ “chai ra chai”, song việc phân loại rác tại nguồn vẫn là thách thức lớn, khiến chi phí xử lý tăng cao. Ông kiến nghị cần chuẩn hóa hệ thống phân loại và có cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư công nghệ để vận hành hiệu quả hơn.
Ở góc độ nghiên cứu, ông Bùi Lê Thanh Khiết, Trưởng nhóm Kinh tế tuần hoàn rác thải nhựa, Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế Tuần hoàn, cho rằng tỷ lệ tái chế bao bì đa vật liệu như hộp sữa, túi gói còn rất thấp do giá trị kinh tế hạn chế, gây khó khăn cho cả người thu gom lẫn doanh nghiệp tái chế.
Hiện nay, hơn 90% bao bì được thu gom bởi các nhóm dân lập (ve chai), vừa tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm môi trường, vừa tạo áp lực cạnh tranh cho doanh nghiệp chính quy. Bên cạnh đó, việc thiếu chứng từ, hóa đơn từ các nhóm này cũng gây khó khăn cho doanh nghiệp hợp pháp trong việc xác minh nguồn gốc nguyên liệu và tiếp cận các quỹ hỗ trợ môi trường.
Ở góc độ doanh nghiệp sản xuất, bà Phạm Thị Bích Phượng, Giám đốc kinh doanh Công ty Thực phẩm Sao Khuê, bày tỏ lo ngại khi chi phí thu gom và tái chế còn quá cao trong khi giá thành bao bì gốc lại rất thấp. Đặc biệt, để đáp ứng yêu cầu bảo quản trong xuất khẩu, nhiều sản phẩm buộc phải sử dụng bao bì nhiều lớp, khó phân hủy, dẫn đến chi phí xử lý tăng lên nhưng hiện vẫn chưa có chính sách hỗ trợ tương xứng.
Những thách thức này đặt ra yêu cầu cấp bách về sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý và doanh nghiệp nhằm xây dựng hệ thống thu gom, phân loại rác tại nguồn hiệu quả. Đây cũng là nền tảng để thúc đẩy ngành công nghiệp tái chế phát triển bền vững, vừa góp phần bảo vệ môi trường, vừa nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế.
Chuyên gia: 'Không có ESG, doanh nghiệp Việt khó xuất khẩu'
Chuyên gia: 'Không có ESG, doanh nghiệp Việt khó xuất khẩu'
(VNF) - Theo bà Nguyễn Cẩm Chi, Giám đốc khối tư vấn phát triển bền vững MCG, ESG không chỉ là chiến lược dài hạn mà trước hết là điều kiện tối thiểu để doanh nghiệp duy trì thị trường xuất khẩu. Các rào cản xanh từ EU, Mỹ đến châu Á đang buộc doanh nghiệp Việt phải thay đổi.
Ứng dụng AI trong ESG: Từ kỳ vọng tối ưu hóa đến bài toán chi phí và nhân lực
(VNF) - AI đang nổi lên như một công cụ chiến lược hỗ trợ doanh nghiệp triển khai ESG và phát triển bền vững. Không chỉ giúp thu thập, phân tích dữ liệu hay tối ưu chi phí vận hành, AI còn mở ra cơ hội tiếp cận vốn xanh và chuẩn hóa báo cáo theo tiêu chuẩn quốc tế.
Dựng trụ cột ESG: Doanh nghiệp Việt ít chi phí và thiếu quy chuẩn
(VNF) - ESG đang vượt khỏi khuôn khổ một xu hướng để trở thành nền tảng trong chiến lược kinh doanh toàn cầu. Tại Việt Nam, tài chính xanh được coi là công cụ quan trọng để hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng bền vững, song thị trường vẫn đối diện nhiều thách thức về pháp lý, chi phí và cơ chế hỗ trợ.
Dự án xanh, tuần hoàn sẽ được hỗ trợ lãi suất 2% từ năm 2026
(VNF) - Theo Phó Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế - NHNN, Nghị định hỗ trợ lãi suất 2%/năm cho doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh và cá nhân thực hiện các dự án xanh, tuần hoàn, áp dụng tiêu chuẩn ESG dự kiến sẽ có hiệu lực vào đầu năm 2026.
'Việt Nam cần 670 – 700 tỷ USD cho tăng trưởng xanh đến 2050'
(VNF) - Theo Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Ngọc Cảnh, để thực hiện các mục tiêu tăng trưởng xanh và phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, Việt Nam cần khoảng 670 – 700 tỷ USD vốn đầu tư dài hạn, đòi hỏi phải huy động và đa dạng hóa mạnh mẽ các nguồn lực tài chính ngoài ngân sách, đặc biệt từ tín dụng xanh, thị trường vốn và khu vực tư nhân.
'Nghiên cứu lập Quỹ khẩn cấp quốc gia để ứng phó với các rủi ro'
(VNF) -TS Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách của Thủ tướng Việt Nam khẳng định. trong bối cảnh nhu cầu vốn cho chuyển đổi xanh, đổi mới công nghệ ngày càng lớn, Việt Nam cần duy trì tốc độ tăng vốn đầu tư khoảng 10% mỗi năm, đồng thời nghiên cứu thành lập Quỹ khẩn cấp quốc gia để ứng phó với các rủi ro.
'Việt Nam có tiềm năng trở thành trung tâm đầu tư tác động của khu vực'
(VNF) - Đại sứ Canada tại Việt Nam Jim Nickel cho rằng, Việt Nam đang hội tụ nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh mẽ thị trường đầu tư tác động, từ tốc độ tăng trưởng kinh tế, cam kết chính sách về phát triển bền vững đến hệ sinh thái doanh nghiệp tạo tác động ngày càng trưởng thành.
Doanh nghiệp nhựa đầu tiên phát hành lô trái phiếu xanh
(VNF) - Nhựa Bình Thuận phát hành 260 tỷ đồng trái phiếu xanh kỳ hạn 7 năm, được GuarantCo bảo lãnh thanh toán, tài trợ dự án nhà máy nhựa Hưng Yên và pallet tái chế.
Canada huy động 12,5 triệu USD vốn tư nhân đầu tư phát triển bền vững ở Việt Nam
(VNF) - Giới chuyên gia khẳng định, Việt Nam đang ở thời điểm then chốt để trở thành trung tâm đầu tư tác động của khu vực ASEAN, với 17,5 triệu đô la Canada (tương đương 12,5 triệu USD) vốn tư nhân đã được huy động thông qua Dự án Sẵn sàng cho Đầu tư Tác động tại Việt Nam (IIRV) do Quỹ Đầu tư Tác động (IIX) thực hiện.
Từ lấn biển đến tái sinh: Đưa Cần Giờ thành siêu đô thị bền vững
(VNF) - Cần Giờ được đánh giá là một trong những mô hình lấn biển bền vững nhất hiện nay, không chỉ là "xây dựng", mà là tái sinh một hệ sinh thái.
'Kỷ nguyên' minh bạch carbon: DN Việt và thách thức 'thiếu nền tảng dữ liệu cơ bản'
(VNF) - Ông Jinki Ham - Chủ tịch và CEO công ty Glassdome cho rằng, việc doanh nghiệp chủ động quản lý và số hóa dữ liệu carbon sẽ quyết định khả năng xuất khẩu, đáp ứng yêu cầu của đối tác quốc tế, tối ưu vận hành, và phát triển bền vững.
Hải Phòng dự thu hàng trăm triệu USD từ bán chứng chỉ carbon
(VNF) - Hải Phòng có thể thu về 120-250 triệu USD/ năm,với giá tín chỉ carbon trung bình 40 - 50 USD/tấn CO2 trên thị trường quốc tế.












