Hướng ra biển để làm giàu

Lê Tiên Long - 29/01/2025 15:00 (GMT+7)

(VNF) - Lịch sử cho thấy, không một quốc gia nào có thể phát triển nếu chỉ khư khư “bế quan, tỏa cảng”, không mở cửa mà có thể phát triển. Nước Việt ta từ thuở mới dựng nước, đã biết cách hướng ra biển để làm giàu.

Dấu vết của những thuyền buôn chở đầy gốm sứ chìm dưới các sông, biển nước ta có niên đại lên đến gần 2000 năm là minh chứng rõ nét cho công cuộc giao thương của tổ tiên người Việt với thế giới. Các nhà khoa học cũng đã chứng minh: Dù trống đồng Đông Sơn xuất hiện khắp các đảo vùng Đông Nam Á, nhưng di chỉ lò đúc trống đồng chỉ xuất hiện ở vùng Đông Sơn, Thanh Hóa, do đó, có khả năng người Việt cổ đã biết buôn bán trống đồng đi khắp khu vực. Trên những chiếc trống đồng đó, thường đúc nổi hình ảnh những con thuyền rất dài, nhiều mái chèo rẽ sóng ra khơi.

Nhiều câu chuyện cổ tích cũng liên quan đến vấn đề buôn bán với nước ngoài, như chuyện Chử Đồng Tử, Mai An Tiêm. Tất nhiên, đa số câu chuyện được sáng tác sau này, khoảng từ thời Trần về sau, nhưng có lẽ, ý thức và kinh nghiệm về việc buôn bán ra bên ngoài đã có từ nghìn xưa.

Vậy nên, từ khi bắt đầu xây nền tự chủ, các triều đại quân chủ Việt Nam đã chú trọng vào công cuộc giao thương. Từ thời Đinh, Tiền Lê, sử sách đã ghi chép về việc buôn bán xuyên biên giới, nhưng chủ yếu là trên đường bộ.

Phải đến triều Lý, việc buôn bán mới được đưa vào quy củ. Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: “Niên hiệu Đại Định năm thứ 10 (1149 – đời vua Lý Anh Tông), mùa xuân, tháng 2, thuyền buôn ba nước Trảo Oa (đảo Java, Indonesia ngày nay), Lộ Lạc (có lẽ là vùng Lavo ở Lopburi, Thái Lan), Xiêm La (Thái Lan ngày nay) vào Hải Đông (Quảng Ninh ngày nay), xin cư trú buôn bán, bèn cho lập trang ở nơi hải đảo, gọi là Vân Đồn, để mua bán hàng hoá quý, dâng tiến sản vật địa phương”. Một khu vực buôn bán ngoại thương chính thức được thành lập, đặt nền móng cho thương cảng sầm uất bậc nhất nước ta.

Nhưng trước đó, đã có những khởi đầu cho sự hình thành này. Đại Việt sử ký toàn thư cũng cho biết: "Trước đây, thời nhà Lý, thuyền buôn tới thì vào các cửa biển Tha, Viên ở châu Diễn (tức vùng Diễn Châu, Bắc Nghệ An hiện nay). Đến nay (đời Lý Anh Tông), đường biển đổi dời, cửa biển nông cạn, thuyền buôn phần nhiều tụ tập ở Vân Đồn…

Hoạt động buôn bán tại thương cảng cổ Vân Đồn. Ảnh: Tư liệu

Sau đó, Vân Đồn tiếp tục được nhà Trần đẩy mạnh phát triển, điển hình là việc giao cho Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư trấn giữ. Thời Trần đặt quan cai quản Vân Đồn gồm có quan Trấn (võ tướng nắm giữ), quan Lộ (văn quan nắm giữ) và quan Sát hải sứ (quan kiểm soát mặt biển), đặt ở đây một đội quân riêng gọi là quân Bình Hải, có nhiệm vụ tuần tra bảo vệ vùng biển Đông Bắc, kiểm soát an ninh hoạt động ngoại thương.

Sau đó, đến thời Lê trung hưng, phố Hiến (thành phố Hưng Yên ngày nay) nổi lên trở thành thương cảng và đô thị giao thương sầm uất nhất Đàng Ngoài, Vân Đồn vẫn được chú trọng làm địa bàn giao thương với nước ngoài nhưng dần mất đi vị thế vì những biến loạn trong nước. Thuyền buôn nước ngoài được phép từ cửa biển vào sâu trong Phố Hiến, Kẻ Chợ, lập cơ sở buôn bán, với những nhà buôn đến từ Anh, Pháp, Bồ Đào Nha, Hà Lan... Giai đoạn này, dọc ven biển Việt Nam cũng đã hình thành lên nhiều thương cảng: Thanh Hà (Thừa Thiên - Huế), Hội An (Quảng Nam), Nước Mặn (Bình Định)… Sử sách Việt Nam và Chiêm Thành cũ cũng cho thấy, các thương cảng khu vực Nam Trung Bộ như Thi Nại, Nước Mặn, Đại Chiêm luôn tấp nập tàu bè buôn bán.

Cố giáo sư Trần Quốc Vượng từng nhận xét: "Người Chăm cổ có cái nhìn về biển đúng đắn, biết cấu trúc một nền kinh tế tổng hợp đa ngành, tuy còn chất phác, thô sơ nhưng đã biết khai thác mọi tài nguyên trên nguồn rừng, dưới biển khơi... để xuất khẩu, có đội chiến thuyền và thương thuyền đủ lớn, đủ mạnh để ra khơi góp phần xây dựng Champa hưng thịnh một thời". Các dấu tích lịch sử cho thấy người Chiêm Thành là hậu duệ của cư dân Nam Đảo di cư sang, nên việc phát triển ngành đi biển cũng là ưu thế của dân tộc này.

Sự ra đời và phát triển của các thương cảng từ Bắc vào Nam đã thu hút các tàu buôn nước ngoài, và nhờ có giao lưu tiếp xúc, các sản phẩm thủ công của Việt Nam có cơ hội trong việc xuất khẩu. Nền kinh tế ngoại thương đã tạo ra một sự khởi sắc cho nghề gốm Việt Nam.

Ở Đàng Trong, khu thương cảng Hội An có giai đoạn phát triển rực rỡ. Sử triều Nguyễn, bộ Đại Nam thực lục (tiền biên) chép: “Buổi quốc sơ, vì xứ Thuận Hóa, Quảng Nam bờ biển kéo dài, người các nước đến buôn nhiều, nên đặt quan cai trị để đánh thuế”. Mức thuế cụ thể có thể thấy theo ghi chép của bộ sử này năm Ất Hợi (1755), dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát như sau: “Thể lệ thuế thuyền buôn như sau: Thuyền Thượng Hải mới đến nộp 3.000 quan, khi về nộp 300 quan; thuyền Quảng Đông mới đến nộp 3.000 quan, khi về 300 quan; thuyền Phúc Kiến mới đến nộp 2.000 quan, khi về 200 quan; thuyền Hải Đông mới đến 500 quan, khi về 50 quan; thuyền Tây Dương (tức các nước châu Âu) mới đến 8.000 quan, khi về 800 quan; thuyền Ma Cao, Nhật Bản mới đến 4.000 quan, khi về 400 quan; thuyền Xiêm La, Lữ Tống (tức đảo Luzong, Philippines ngày nay) mới đến 2.000 quan, khi về 200 quan. Thuyền không có hàng hóa thì không vào cửa biển. Đại ước hằng năm số tiền thu thuế ít là không dưới một vạn quan, nhiều là hơn ba vạn quan, chia làm 10 phần, lấy 6 phần nộp kho, còn 4 phần cấp phát cho quan lại và quân nhân”.

Trong Phủ biên tạp lục, Lê Quý Đôn cũng đánh giá: “Phủ Thuận Hóa, tiếp giáp với Quảng Nam, vừa đường thủy vừa đường bộ. Về đường bộ thì cách Mân (Phúc Kiến, Quảng (Quảng Đông) độ 3, 4 ngày đường. Cho nên thuyền buôn từ trước tới nay vẫn đến rất nhiều… Khi họ Nguyễn giữ đất này thu được thuế tàu và thuyền rất nhiều. Khi có tàu đến xứ Quảng Nam vào phố Hội An bởi cửa Đại Chiêm (tức cửa Châm) và vào vịnh Lầm bởi cửa Đà Nẵng (tức cửa Hàn) thì những người buôn ấy phải nộp các thứ thổ vật và thuế đến thuế đi theo như thể lệ đã định. Cứ mỗi năm cộng tính được tiền thuế là bao nhiêu phải nộp vào kho 6 phần, còn 4 phần chia cho quan, lại, quân, dân”.

Lê Quý Đôn ghi chú: “Tàu Thượng Hải là tàu tỉnh Chiết Giang, có khi chính trong triều đình Trung Quốc sai quan đị mua sàn vật. Tàu Hải Nam là tầu Quỳnh Châu, tàu Ma Cao là tàu nước Hòa Lan (Hà Lan)”.

Phủ biên tạp lục cũng cho biết, các chúa Nguyễn chú trọng công tác ngoại thương qua việc chọn binh lính biết tiếng ngoại quốc ở Hội An để cử ra coi giữ Cù lao Chàm và cửa Đà Nẵng, nhằm tiện giao dịch với thuyền buôn nước ngoài, hướng dẫn họ thủ tục buôn bán. Danh sách hàng hóa của từng thuyền phải được trình lên chúa, chúa muốn mua món gì vào kho thì thuyền trưởng phải ưu tiên bán cho, những thứ không mua thì cho phép bán ra ngoài.

Dần dần trong thời Nguyễn, Đà Nẵng thay thế Hội An trở thành nơi giao thương chính của đất nước. Năm 1835, khi vua Minh Mạng có dụ: “Tàu Tây chỉ được đậu tại Cửa Hàn, còn các biển khác không được tới buôn bán”. Các thương nhân Nhật Bản hoặc Trung Hoa đều phải lựa chọn lối vào là cửa Đà Nẵng thay vì cửa Hội An, vì ưu thế vượt trội của vịnh Đà Nẵng là nước sâu và có độ an toàn cao. Đà Nẵng trở thành một thương cảng lớn bậc nhất miền Trung.

Bến cảng sông Hàn xưa. Ảnh: Tư liệu

Suốt thời các vua Nguyễn, việc giao thương với nước ngoài vẫn được tiến hành đều đặn, triều đình đặt Nha Thương Bạc để phụ trách việc này. Đến thời vua Tự Đức, triều đình cần mua hàng hóa gì, vẫn nhờ tàu buôn nước ngoài đi sang phương Tây mua hộ. Triều đình cũng cử tàu buôn trực tiếp đi Hương Cảng, Giang Lưu Ba (Singapore) để buôn bán. Việc này chỉ bị đình trệ khi các vua Nguyễn lo ngại về an ninh quốc gia khi sợ rằng tàu buôn nước ngoài đưa các giáo sĩ phương Tây vào truyền đạo, gây mầm mống phản loạn, nhất là từ giữa thế kỷ XIX, khi các thế lực nước ngoài lăm le xâm lược bờ cõi và tàu chiến của liên quân Pháp – Tây Ban Nha bắt đầu thường xuyên xuất hiện trước các cửa biển. Đỉnh điểm là cuộc chiến tại Đà Nẵng năm 1858 khiến ngoại thương bị đứt đoạn. Không chỉ cấm tàu buôn nước ngoài, mà từ năm Tự Đức thứ 19 (1866), triều Nguyễn còn cấm cả thuyền buôn trong nước đi ngoại quốc.

Sau khi thực dân Pháp chiếm được lục tỉnh Nam kỳ, vua Tự Đức đã có những động thái thay đổi chính sách bế quan tỏa cảng, như đặt Bình Chuẩn Ty để coi việc buôn bán, và nâng cấp Viện Thương Bạc để coi việc giao thiệp với người nước ngoài. Tuy nhiên, lúc này cơ hội giao thương đã không còn thuận lợi nữa. Với sức ép quân sự, người Pháp khi ép triều đình nhà Nguyễn ký Hòa ước Giáp Tuất (1874), đã đòi quyền tự do buôn bán tại các cảng biển. Từ đó, ngoại thương Việt Nam lại tiếp tục phát triển, nhưng từ đó chỉ đem về lợi ích thực dân Pháp mà thôi.

Về những lợi ích của việc giao thương đường biển thời kỳ tự chủ, có thể xem nhận xét của Lê Quý Đôn về thời thịnh vượng của ngoại thương xứ Đàng Trong trước khi quân Trịnh tiến vào chiếm Phú Xuân như sau: “Thuyền buôn nước ngoài đến xứ Sơn Nam khi về chỉ mua được một thứ Vu dự cương (củ nâu), ở Thuận Hóa khi về chỉ mua được một thứ hồ tiêu. Còn như xứ Quảng Nam thì không thiếu một thứ gì, không nơi nào có nhiều sản vật như ở Quảng Nam. Các sản vật ở các phủ Thăng Hoa, Điện Bàn, Quy Nhân (Quy Nhơn ngày nay), Quảng Nghĩa (Quảng Ngãi ngày nay), Bình Khang (Khánh Hòa) và dinh Nha Trang đều đem đến phố Hội An bằng đường bộ và bằng đường bể. Cho nên các nguời lái buôn ở Trung Quốc đều đến rất nhiều để mua đem về nước. Hóa sản rất nhiều, đến hàng trăm chiếc tàu to vận tải cũng không hết”.

Và trong khi tàu buôn nước ngoài đem đến nước ta đủ thứ hàng hóa, thì nước ta cũng có cơ hội xuất khẩu hàng loạt sản vật địa phương, được kể đến như “hồ tiêu, cau, thảo đậu khấu, tô mộc, sa nhân, yến sào, gân hươu, vây cá, tôm khô, đường phèn… lại còn có nhiều vị thuốc như hoạt thạch, phấn và các vị thuốc thổ sản không kể siết được”. Do đó, khi Lê Quý Đôn hỏi thương nhân Trung Quốc rằng mang hàng sang bán có bị đình trệ không, được trả lời rằng: “hàng bán rất chạy, không đinh trệ bao giờ”.

Tác giả Phủ biên tạp lục kết luận: “Nhờ có sự buôn bán trao đổi, cho nên cả hai bên đều được tiện lợi”.

Chợ Việt xưa và nay: Vân Đồn, từ thương cảng cổ đến cực phát triển mới

Chợ Việt xưa và nay: Vân Đồn, từ thương cảng cổ đến cực phát triển mới

Bất động sản
(VNF) - UBND tỉnh Quảng Ninh đã và đang triển khai các thủ tục cần thiết để đề nghị xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt đối với Quần thể di tích lịch sử Thương cảng Vân Đồn. Nhưng Vân Đồn không chỉ là di tích, Vân Đồn còn là một cực phát triển rất quan trọng trên dải đất Đông Bắc của nước Việt...
Cùng chuyên mục
Tin khác
Ngày vía Thần tài: Giá vàng nhẫn có nơi 'chém' tới 9,2 triệu đồng

Ngày vía Thần tài: Giá vàng nhẫn có nơi 'chém' tới 9,2 triệu đồng

(VNF) - Trong không khí sôi động của ngày vía Thần Tài, khảo sát thị trường cho thấy giá vàng nhẫn trơn dao động từ 8,77 triệu đồng đến 8,85 triệu đồng mỗi chỉ, nhưng tại một số điểm, giá lên tới 9,2 triệu đồng.