Ngân hàng

Ngân hàng Phát triển Việt Nam - 15 năm đồng hành cùng đất nước

(VNF) - Sau 15 năm hoạt động, Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) đã từng bước phát huy vai trò của một Ngân hàng chính sách của Chính phủ, góp phần đầu tư phát triển kinh tế - xã hội đất nước, đặc biệt phục vụ hiệu quả các chương trình, dự án kinh tế trọng điểm và phát triển vùng miền khó khăn trong nước.

Ngân hàng Phát triển Việt Nam - 15 năm đồng hành cùng đất nước

Ngân hàng Phát triển Việt Nam - 15 năm đồng hành cùng đất nước.

Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) được thành lập ngày 19/5/2006 trên cơ sở tổ chức lại Quỹ Hỗ trợ phát triển và chính thức đi vào hoạt động từ 1/7/2006.

Chặng đường 15 năm xây dựng và trưởng thành, VDB luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, sự giúp đỡ của các Bộ, ngành, đoàn thể, các cơ quan Trung ương và địa phương, sự đồng hành của các doanh nghiệp. VDB đã từng bước vượt qua những khó khăn, thách thức, thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao với vai trò là ngân hàng chính sách của Chính phủ.

Từ khi thành lập và đi vào hoạt động, Chính phủ giao VDB các chức năng, nhiệm vụ: huy động, tiếp nhận vốn của các tổ chức trong và ngoài nước để thực hiện chính sách tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và tín dụng xuất khẩu theo quy định của Chính phủ; nhận ủy thác quản lý nguồn vốn ODA được Chính phủ cho vay lại; nhận ủy thác, cấp phát cho vay đầu tư và thu hồi nợ của khách hàng từ các tổ chức trong và ngoài nước thông qua hợp đồng nhận ủy thác giữa VDB với các tổ chức ủy thác; ủy thác cho các tổ chức tài chính, tín dụng thực hiện nghiệp vụ tín dụng của VDB; cung cấp các dịch vụ thanh toán cho khách hàng và tham gia hệ thống thanh toán trong nước và quốc tế phục vụ các hoạt động của VDB theo quy định của pháp luật; thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu và một số nhiệm vụ khác được Thủ tướng Chính phủ giao.

Cùng với đó, VDB được giao quản lý huy động vốn và đầu tư dự án đường ô tô cao tốc Hà Nội - Hải Phòng; quản lý cho vay có hiệu quả các nguồn vốn theo Chương trình Kiên cố hóa kênh mương, bê tông hóa hệ thống đường giao thông nông thôn; đầu tư tôn nền vượt lũ để xây dựng cụm, tuyến dân cư ở vùng ngập sâu Đồng bằng sông Cửu Long; quản lý vốn ủy thác từ các Quỹ Đầu tư phát triển của các địa phương; huy động ủy thác cho các địa phương…

Các hoạt động này có ý nghĩa quan trọng hỗ trợ các địa phương có nguồn vốn đầu tư phát triển theo chiến lược, kế hoạch phát triển của mình; qua đó tăng cường uy tín, vai trò của VDB đối với các địa phương, tạo điều kiện hơn cho sự phát triển của hệ thống VDB nói chung và các chi nhánh VDB nói riêng trên địa bàn.

Đến nay, sau 15 năm hoạt động, VDB đã từng bước phát huy vai trò của một Ngân hàng chính sách của Chính phủ, góp phần đầu tư phát triển kinh tế - xã hội đất nước, đặc biệt phục vụ hiệu quả các chương trình, dự án kinh tế trọng điểm và phát triển vùng miền khó khăn trong nước.

Vai trò của VDB giai đoạn 2006 - 2021

Thông qua việc huy động và tài trợ vốn cho các dự án đầu tư, đặc biệt là các dự án trọng điểm của Chính phủ, VDB tham gia ngày càng đắc lực hơn vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tính chung, vốn đầu tư phát triển do VDB cho vay trong giai đoạn 2006 - 2020 chiếm khoảng 5% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và bằng 2% GDP.

Tín dụng của VDB đã được đẩy mạnh đáng kể với tốc độ tăng trưởng tổng dư nợ bình quân giai đoạn 2006 - 2020 đạt gần 7,3%/năm, đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư dự án của các doanh nghiệp, góp phần giải quyết nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển của nền kinh tế.

Thực hiện mục tiêu chiến lược chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng CNH - HĐH, vốn tín dụng của VDB đã có những bước chuyển biến căn bản và mạnh mẽ về cơ cấu vốn đầu tư theo lĩnh vực ngành nghề, theo hướng tăng nhanh tỷ trọng vốn dành cho đầu tư phát triển các dự án công nghiệp nặng, công nghiệp phục vụ nông nghiệp nông thôn và công nghiệp nhẹ, trong đó có chú trọng đến công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản.

Tỷ lệ vốn tín dụng của VDB thực hiện trong thời gian qua đối với lĩnh vực công nghiệp, xây dựng luôn tăng nhanh, duy trì mức bình quân hơn 70% dư nợ; tỷ lệ vốn tín dụng của VDB luôn cao hơn tỷ lệ vốn đầu tư phát triển của toàn xã hội trong lĩnh vực này, thu hút các nguồn vốn khác trên thị trường cùng cho vay các dự án đầu tư các ngành thuộc lĩnh vực công nghiệp, xây dựng.

Đặc biệt, VDB đã cho vay gần 200 dự án trọng điểm (Nhóm A) trên phạm vi cả nước, trong đó hầu hết các dự án đều thuộc lĩnh vực công nghiệp cơ bản (xi măng, thép, điện, giấy, phân bón, chế biến cao su, cơ khí, vệ tinh viễn thông) với tổng số vốn vay chiếm khoảng 50% tổng mức đầu tư, tác động tích cực đến tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các vùng miền và cả nước, góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế của đất nước.

Thông qua việc đẩy mạnh cho vay vốn đầu tư phát triển, hoạt động tín dụng của VDB đã đạt được những kết quả tích cực, góp phần tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế thông qua hoạt động cho vay đối với nhiều chương trình/dự án trọng điểm nổi bật như: thủy điện Sơn La, thủy điện Lai Châu và các dự án về ngành điện (bao gồm cả sản xuất và phân phối điện), các nhà máy xi măng, Apatit Lào Cai, Đạm Cà Mau, Điện gió Bạc Liêu, Đường ôtô cao tốc Hà Nội - Hải Phòng...

Việc cho vay lượng vốn lớn đối với các dự án trọng điểm góp phần không chỉ tạo động lực phát triển cho các ngành/lĩnh vực trọng điểm theo chủ trương của Chính phủ mà còn tạo hiệu ứng lan tỏa phát triển vùng/miền và các ngành thương mại, sản xuất vật liệu và hỗ trợ.

Cũng nhờ đó, đã góp phần tăng cường cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế trên một số lĩnh vực chủ yếu như: sản xuất và truyền tải điện (gần 400 dự án thuộc ngành điện với lượng vốn cho vay hơn 200.000 tỷ đồng), xi măng (hơn 30 dự án với số vốn vay theo hợp đồng tín dụng hơn 18.000 tỷ đồng), hoá chất (10 dự án với số vốn vay theo hợp đồng tín dụng gần 13.000 tỷ đồng), nông nghiệp, nông thôn (gần 650 dự án với số vốn theo hợp đồng tín dụng khoảng 53.000 tỷ đồng), an sinh xã hội (310 dự án xây dựng trường học, bệnh viện, xử lý rác thải, cấp nước sạch, nhà ở xã hội,… với số vốn vay theo hợp đồng tín dụng hơn 50.150 tỷ đồng), cho các địa phương vay hơn 47.100 tỷ đồng để đầu tư các dự án kiên cố hóa kênh mương, giao thông nông thôn, tôn nền vượt lũ đồng bằng sông Cửu Long…

Thông qua nguồn vốn tín dụng xuất khẩu (TDXK) của Nhà nước, hàng trăm doanh nghiệp xuất khẩu thuộc đối tượng vay vốn đã thực hiện được các hợp đồng xuất khẩu với các đối tác nước ngoài, đóng góp đáng kể vào kim ngạch xuất khẩu của cả nước, góp phần đưa hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu đến hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ, từ các thị trường khó tính như Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU… đến các thị trường mới như Trung Đông, châu Phi.

Bên cạnh việc tài trợ vốn TDXK cho các doanh nghiệp xuất khẩu lớn, hàng đầu cả nước có vai trò đòn bẩy đối với ngành hàng xuất khẩu, VDB còn tài trợ các doanh nghiệp có quy mô vừa, nhỏ ở vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn.

Với doanh số cho vay xuất khẩu từ khi thành lập VDB đến lúc dừng triển khai hoạt động TDXK (tháng 3/2017) lên đến trên 142.000 tỷ đồng, VDB đã giúp các doanh nghiệp giảm chi phí đầu vào, tăng khả năng cạnh tranh, tranh thủ thời cơ mở rộng và đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế, tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp giữ vững thị trường truyền thống, khai thác các thị trường mới và tiềm năng, góp phần hỗ trợ thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, mở rộng quan hệ đối tác chiến lược, tình hữu nghị với các nước trên thế giới (xuất khẩu sang Cuba, Iraq...) theo đúng chủ trương của Đảng, Chính phủ trong hợp tác kinh tế và quan hệ giữa Việt Nam và các nước.

Trái phiếu do VDB phát hành thời gian qua đã góp phần thúc đẩy phát triển thị trường tài chính nói chung và thị trường vốn, thị trường trái phiếu nói riêng thông qua việc bổ sung thêm các sản phẩm tài chính, tăng quy mô thị trường (vốn trái phiếu của VDB đóng góp 2,2% vào tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, chiếm khoảng 0,8% GDP).

Thông qua việc cùng hợp vốn với các TCTD để cho vay, vốn tín dụng của VDB đã góp phần quan trọng thu hút các nguồn vốn dài hạn khác trong và ngoài nước để tài trợ cho các dự án đầu tư, góp phần tích cực vào mức tăng trưởng tín dụng hàng năm của nền kinh tế, tăng tỷ lệ tiền tệ hóa toàn nền kinh tế.

Bên cạnh hoạt động cho vay, các hình thức hỗ trợ gián tiếp khác như hỗ trợ sau đầu tư, bảo lãnh tín dụng cũng góp phần quan trọng trong việc mở rộng thêm các kênh vốn thương mại, thúc đẩy huy động nguồn lực xã hội dành cho đầu tư phát triển, đồng thời làm tăng quy mô tín dụng của các TCTD, tăng tổng dư nợ nền kinh tế.

VDB quản lý cho vay lại nguồn vốn ODA với 374 dự án cho vay theo Hiệp định của Chính phủ, tổng số vốn cam kết là 14.015 triệu USD, dư nợ tương đương 155.808 tỷ đồng. Các dự án do VDB quản lý, cho vay lại có hiệu quả (nợ quá hạn rất thấp) đã tiếp tục nâng cao uy tín của VDB đối với các Nhà tài trợ quốc tế, từ đó, VDB đã được các tổ chức tài chính tín nhiệm.

Trong hợp tác quốc tế, VDB luôn nhất quán thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, thu hút hiệu quả các nguồn lực bên ngoài phục vụ mục tiêu phát triển bền vững của hệ thống. VDB đã xác lập cơ sở hợp tác với 15 tổ chức quốc tế có uy tín (KEXIM, DBJ, JBIC, CDB, USEXIM, Vneshconombank...). Thông qua việc ký kết các Biên bản ghi nhớ (MOU) hợp tác đôi bên cùng có lợi, tạo điều kiện thuận lợi, thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực mà các bên cùng quan tâm như chia sẻ kinh nghiệm quản lý ngân hàng, tài trợ dự án cơ sở hạ tầng, năng lượng sạch, giáo dục, y tế...

Cơ cấu toàn diện để tăng trưởng và phát triển bền vững

Thực hiện Chiến lược phát triển VDB đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030 theo Quyết định số 369/QĐ-TTg ngày 28/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ; Đề án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2019 - 2021 theo Quyết định số 48/QĐ-TTg ngày 31/7/2019 của Thủ tướng Chính phủ, VDB thực hiện sắp xếp lại tổ chức bộ máy (bao gồm cả sắp xếp lại các các chi nhánh, Sở Giao dịch và các đơn vị tại Trụ sở chính), cơ cấu lại các hoạt động của VDB theo hướng dừng một số hoạt động nghiệp vụ (tín dụng xuất khẩu, hỗ trợ sau đầu tư và bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn ngân hàng thương mại…), tập trung vào hoạt động tín dụng đầu tư của Nhà nước và quản lý, cho vay lại vốn ODA; cơ cấu lại tài chính; củng cố, nâng cao hiệu quả quản trị, điều hành; tích cực triển khai xử lý nợ xấu...

Hiện VDB đang nghiên cứu, đề xuất với các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền hoàn thiện Đề án mô hình hoạt động của VDB sau năm 2021 theo hướng tăng cường tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong các hoạt động để thực hiện có hiệu quả vai trò hỗ trợ phát triển nền kinh tế, hạn chế sự can thiệp của Chính phủ trong quá trình thực hiện chính sách tín dụng (giảm dần các khoản cho vay theo chỉ định), Chính phủ và các cơ quan Bộ, ngành giữ vai trò định hướng, giám sát hoạt động theo quy định của pháp luật.

Nhằm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật nhằm tạo khuôn khổ pháp lý cho việc triển khai hoạt động của VDB, ngày 31/3/2021, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã ký ban hành Nghị định số 46/2021/NĐ-CP về chế độ quản lý tài chính và đánh giá hiệu quả hoạt động đối với Ngân hàng Phát triển Việt Nam.

Một số văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến hoạt động của VDB cũng đã được Bộ Tài chính hoàn thiện dự thảo để báo cáo Chính phủ,  Thủ tướng Chính phủ quyết định ban hành, như: Quy chế xử lý rủi ro tín dụng tại VDB, Quyết định sửa đổi, bổ sung Quy chế bảo lãnh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa vay vốn tại các ngân hàng thương mại ban hành kèm theo Quyết định số 03/2011/QĐ-TTg ngày 10/01/2011 của Thủ tướng Chính phủ về quy chế bảo lãnh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay vốn ngân hàng thương mại; Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 32/2017/NĐ-CP ngày 31/3/2017 của Chính phủ về tín dụng đầu tư của Nhà nước…

Đồng thời với hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động, VDB đẩy mạnh xử lý và thu hồi nợ, tích cực thực hiện các biện pháp xử lý nợ xấu phù hợp với Quy chế xử lý rủi ro tín dụng tại VDB; ban hành hoặc sửa đổi các quy định nhằm nâng cao hiệu quả quản trị, điều hành và kiểm soát nội bộ (Quy chế làm việc của VDB, Quy chế phối hợp công tác giữa Hội đồng quản trị và Ban Kiểm soát, Quy chế hoạt động của Hội đồng quản trị…); nghiên cứu xây dựng phương án tổ chức bộ máy hoạt động của VDB sau giai đoạn cơ cấu lại phù hợp tình hình thực tế theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ.

Đến nay, VDB đã từng bước chuyển đổi, hệ thống văn bản quản trị nội bộ cũng được rà soát, sửa đổi và xây dựng mới tương đối phù hợp, đáp ứng được yêu cầu thực tế; công tác thu hồi xử lý nợ được tăng cường nhằm giảm dần tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn theo định hướng được duyệt; cơ chế quản lý tài chính và thanh toán tập chung góp phần nâng cao an toàn cho hệ thống, tạo điều kiện mở rộng hoạt động và tăng cường quản trị rủi ro...

Trong giai đoạn hiện nay, ngân hàng xanh đã và đang trở thành xu thế trên thế giới cũng như tại Việt Nam. Với vai trò là một công cụ tài chính của Chính phủ trong việc thực hiện Chiến lược tăng trưởng xanh và Chiến lược chống biến đổi khí hậu của quốc gia, VDB đang đăng ký trở thành Cơ quan Thực hiện Quốc gia của Quỹ Khí hậu xanh (GCF).

Tính đến thời điểm hiện tại, VDB là cơ quan duy nhất được Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Cơ quan Thẩm quyền Quốc gia của GCF) đề cử để đăng ký trở thành Cơ quan Thực hiện Quốc gia của GCF. VDB đang phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoàn thiện đề xuất dự án để sớm trình lên GCF. Với hy vọng đề xuất dự án sẽ sớm được GCF phê duyệt, VDB có thể triển khai và từng bước trở thành Ngân hàng xanh theo đúng mục tiêu đề ra.

15 năm hình thành và phát triển, khoảng thời gian có ý nghĩa quan trọng đánh dấu những bước phát triển trong hoạt động của VDB theo đúng định hướng chỉ đạo của Chính phủ. VDB đã và đang phát huy tốt vai trò là công cụ tài trợ phát triển của Chính phủ, có những đóng góp tích cực để thực hiện các chương trình, dự án quan trọng, hỗ trợ phát triển các vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn, đảm bảo an sinh xã hội góp phần thúc đẩy tăng trường và phát triển kinh tế - xã hội cho đất nước.

Để tiếp tục hoạt động hiệu quả, VDB cần nỗ lực nâng cao năng lực toàn diện nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ trong giai đoạn tới. VDB rất cần được Chính phủ và các bộ, ngành tiếp tục quan tâm, ủng hộ tạo điều kiện về nguồn lực, cơ chế chính sách và giải pháp đột phá nhằm sớm tháo gỡ các vướng mắc trong hoạt động, đặc biệt là các quy định trong chính sách TDĐT của Nhà nước hiện nay, từ đó phát huy hơn nữa vai trò ngân hàng chính sách của Chính phủ trong hỗ trợ phát triển nền kinh tế góp phần đưa đất nước vươn cao tầm vóc và hội nhập quốc tế.

Tin mới lên