'Kinh tế tư nhân: Động lực vươn mình từ Nghị quyết 68'
(VNF) - Ngày 13/5, Tạp chí Đầu tư Tài chính – VietnamFinance tổ chức Tọa đàm “Kinh tế tư nhân: Động lực vươn mình từ Nghị quyết 68”.
Ngày 04/05/2025, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký Nghị quyết số 68/NQ-TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, trong đó đề cập đến nhiều vấn đề quan trọng liên quan đến khu vực kinh tế tư nhân tại Việt Nam.
Ông Hoàng Anh Minh, Tổng Biên tập Tạp chí Đầu tư Tài chính – VietnamFinance, cho biết tháng 10/2024, Tạp chí Đầu tư Tài chính đã chính thức ra mắt cuốn Đặc san Toàn cảnh kinh tế tư nhân nhân kỷ niệm 20 năm Ngày doanh nhân Việt Nam. Sự kiện đó diễn ra trong bối cảnh các thông điệp chính sách của các lãnh đạo Đảng và Nhà nước trong một năm qua đã nhấn mạnh đến một “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”.
“Với việc ban hành Nghị quyết 68 mới đây, có thể nói đây là dịp rất quan trọng để chúng ta cùng nhìn lại hành trình phát triển của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, trong đó khối kinh tế tư nhân đang ngày càng phát huy hiệu quả vai trò quan trọng của mình. Đồng thời, cũng là thời điểm để các doanh nghiệp, doanh nhân nhận thức lại vai trò và cơ hội của mình trong dòng chảy phát triển chung của đất nước trong giai đoạn mới”, ông Hoàng Anh Minh nói.

13:00: Bế mạc
Phát biểu bế mạc tọa đàm, TS Lê Minh Nghĩa – Chủ tịch Hiệp hội Tư vấn Tài chính Việt Nam (VFCA) – bày tỏ sự trân trọng trước không khí trao đổi sôi nổi và hàm lượng chất xám rất cao của sự kiện. Dù phòng họp không lớn, nhưng quy tụ được đầy đủ các thành phần: học giả, nhà quản lý, nhà lập pháp, đại diện doanh nghiệp. 15 ý kiến trao đổi được đưa ra trong buổi tọa đàm, không thua kém về chiều sâu và thực chất so với một diễn đàn quy mô lớn.
Ông cũng không giấu được sự day dứt, trăn trở khi nhắc lại Nghị quyết số 10 Hội nghị Trung ương 5, nơi từng đặt mục tiêu đến năm 2020 có gần 1 triệu doanh nghiệp. Thế nhưng, đến nay đã sắp 2025, con số ấy vẫn chưa đạt được. Điều này cho thấy mức độ “đào thải” trong cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam là rất lớn.
“Nay ta lại đặt ra mục tiêu đến năm 2030 có 2 triệu doanh nghiệp, năm 2045 có 3 triệu doanh nghiệp, nghĩa là tăng thêm 1 triệu doanh nghiệp trong vòng 15 năm. Nhưng nếu nhìn về cơ cấu dân số, thì con số đó vẫn chỉ tương đương 1 doanh nghiệp trên 50 người dân, trong khi tại Mỹ là 1 doanh nghiệp trên 10 dân. Điều này đáng để chúng ta suy nghĩ nghiêm túc: Làm sao để người dân được làm, được hành động với tư cách là doanh nghiệp – chứ không phải chỉ 'khởi nghiệp' theo phong trào", TS Lê Minh Nghĩa trăn trở.

TS Lê Minh Nghĩa cũng chia sẻ niềm vui về sự ra đời của Nghị quyết 68 về kinh tế tư nhân. Đây là tín hiệu tích cực, tạo ra không khí phấn khởi, hồ hởi trong xã hội. Rất nhiều lực lượng đã đón nhận, hưởng ứng, cảm thấy được ghi nhận và tin tưởng hơn vào tương lai.
Những người làm trong lĩnh vực này, như ông và nhiều cộng sự, đã chứng kiến sự vận động rất dài – từ chỗ kỳ thị kinh tế tư nhân, đến năm 1988 buộc phải thừa nhận kinh tế tư nhân “không thể chết”, rồi dần dần xác lập vai trò là một động lực quan trọng trong nền kinh tế độc lập, tự chủ của đất nước, sánh vai cùng kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể.
“Có một ý trong nghị quyết lần này khiến tôi đặc biệt tâm đắc: Đó là xác lập rõ ràng vai trò của kinh tế tư nhân như một động lực trong nền kinh tế quốc gia. Trước đây, chưa ai dám nói điều đó một cách chính thức. Có lẽ vì vậy, Trung ương rất thận trọng. Với một nghị quyết chính trị, quan trọng nhất là giữ được sự ổn định của đất nước. Nhưng nếu thiếu một chữ ‘một’ – tức là ‘một trong những động lực’ – thì sẽ là vấn đề lớn về mặt diễn giải”, ông Nghĩa phân tích.
TS Lê Minh Nghĩa cũng đề xuất các cơ quan quản lý sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) để tổng hợp toàn bộ các nghị quyết từ Đại hội VI đến nay, từ đó đưa ra đánh giá khách quan và định hướng chính sách tiếp theo một cách hệ thống, không cảm tính. Những gì đang được hoạch định hôm nay cần được đặt trong tiến trình dài hạn, để tránh lặp lại các điểm mù chính sách trước đây.
“Khi đứng trước những vấn đề lớn của đất nước, chúng ta không thể lạc quan một cách mơ hồ, nhưng cũng không thể ngần ngại. Không có cách nào khác ngoài việc đi thì mới ra được đường. Với tư cách là một tổ chức xã hội nghề nghiệp, VFCA mong muốn tiếp tục lắng nghe các ý kiến đa chiều và cùng góp phần tổng kết, đưa ra góc nhìn cho doanh nghiệp và nền kinh tế tư nhân nước nhà”, TS Lê Minh Nghĩa khép lại phần phát biểu.
Kết thúc tọa đàm, lãnh đạo VFCA và Tạp chí Đầu tư Tài chính - VietnamFinance tặng hoa cho các chuyên gia

12:53: Cần một Chính phủ kiên định và trí tuệ, một Quốc hội bản lĩnh, một xã hội sẵn sàng tạm ứng niềm tin cho doanh nghiệp
Chia sẻ tại tọa đàm, nhà văn Nguyễn Thành Phong nhìn nhận, hành trình xây dựng chính sách cho kinh tế tư nhân là một chặng đường nhọc nhằn, phải đánh đổi bằng không ít hy sinh và trả giá. Điều đáng mừng là thời gian gần đây, hành trình đó đang có những bước tiến vượt bậc – từ chỗ xác định “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng” đến quan điểm mạnh mẽ hơn: “một trong những động lực quan trọng nhất của nền kinh tế”.
Ông Phong cũng dẫn lại một quan điểm mà ông lấy làm tâm đắc tại bài viết mới đây của Tổng bí thư Tô Lâm rằng đội ngũ doanh nhân sẽ tham gia thực chất vào quản trị chính sách, không chỉ làm giàu mà còn lãnh đạo việc làm giàu cho đất nước”.

Nhà văn cho rằng, để đi đến thành công, cần hội tụ nhiều yếu tố. Ông nhắc lại quan điểm của TS Lê Xuân Nghĩa về chất lượng điều hành của Chính phủ và bổ sung thêm: “Theo tôi, chúng ta cần một Quốc hội bản lĩnh, một Chính phủ trí tuệ và kiên định trong lựa chọn mục tiêu; cần những doanh nghiệp có khát vọng và nội lực; và trên hết, phải có sự đồng thuận từ dư luận xã hội – nơi người dân thực sự thông thái và đặt niềm tin vào chính những doanh nghiệp của đất nước mình”.
Dẫn lại câu chuyện về đường sắt cao tốc, ông Phong nói: “Chúng ta khao khát có một tuyến đường sắt hiện đại, được xây dựng bằng vốn và năng lực của người Việt. Nhưng khi doanh nghiệp nội địa đứng ra đề xuất, họ lại phải hứng chịu sự dè bỉu – dù đó là những doanh nghiệp lớn, có thực lực và kinh nghiệm thực tiễn”.
Ông nhắc đến những bài học trong quá khứ: từ dự án đường sắt Cát Linh – Hà Đông, Nhổn – Ga Hà Nội, cho đến đường trên cao Vĩnh Tuy – Ngã tư Sở. “Chúng ta đã thấy có những nhà thầu làm nhanh, làm hiệu quả, có trải nghiệm thực tế với các công trình lớn. Dù đường sắt cao tốc là bài toán phức tạp hơn, nhưng điều quan trọng là có sự tin tưởng”, ông nói.
Nhân dịp có đại diện Tập đoàn Đèo Cả tham dự, ông Phong chia sẻ thêm: “Tập đoàn này khởi đầu từ một hợp tác xã xây dựng nhỏ ở Hải Thạch, từng bước làm nên hầm Đèo Cả, rồi đến Hải Vân, và cao tốc Bắc Giang – Lạng Sơn. Bây giờ họ muốn làm đường sắt cao tốc, chúng ta cảm nhận rất rõ khát vọng của họ – đó không chỉ là một đề xuất kinh tế, mà là mong muốn được góp phần vào sự phát triển đất nước”.
Ông cho rằng, việc dư luận dè bỉu là một “tật xấu” không hiếm của người Việt. “Chúng ta cần một Chính phủ trí tuệ, một Quốc hội bản lĩnh để ủng hộ doanh nghiệp; cần một xã hội sẵn sàng tạm ứng niềm tin thay vì định kiến”.
Để đạt được điều đó, ông nhấn mạnh vai trò của các diễn đàn, hội thảo chính sách được tổ chức kịp thời, ngay từ khi văn bản mới ban hành. “Những tọa đàm như thế này là điểm khởi đầu rất đáng quý. Tôi mong rằng các cá nhân có tiếng nói và ảnh hưởng trong xã hội sẽ tiếp tục lên tiếng mạnh mẽ, góp phần tạo điều kiện để công cuộc vươn mình phát triển của đất nước sớm thành công”, nhà văn Nguyễn Thành Phong gửi gắm.
12:40: "Cần cách tiếp cận mới trong thể chế nhằm giải phóng nguồn lực vô hạn từ kinh tế tư nhân"
Theo Luật sư Bùi Văn Thành, Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị đang mở ra một “trạng thái mới” cho khu vực kinh tế tư nhân – nơi không chỉ được khẳng định vị thế, mà còn cần được tiếp cận thể chế theo cách thức hoàn toàn khác trước.
Nghị quyết 68 đã tạo ra niềm tin mới cho cộng đồng doanh nhân, khi lần đầu tiên thể chế đặt trọng tâm vào việc nhìn nhận, trao quyền và phát huy vai trò của kinh tế tư nhân như một động lực phát triển quan trọng.
“Khi được tin tưởng, người ta sẽ dám làm, dám bỏ tiền, bỏ công sức và trí tuệ để theo đuổi mục tiêu kinh doanh bền vững”, ông chia sẻ.
Không dừng lại ở việc khơi dậy tinh thần khởi nghiệp, Nghị quyết 68 còn được kỳ vọng sẽ giúp loại bỏ những rào cản thể chế đang cản trở bước tiến của doanh nghiệp. “Nếu cái gì là rào cản với doanh nghiệp thì cần xóa bỏ ngay. Thể chế cần phục vụ cho sự phát triển, không phải làm chậm lại những nỗ lực của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh toàn cầu”, ông nhấn mạnh.

Vị chuyên gia cũng chỉ ra rằng, để đạt mục tiêu trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045 – với ngưỡng thu nhập bình quân đầu người 18.000 USD – Việt Nam cần một cú hích thực sự từ khu vực tư nhân. “Con số 18.000 USD mà ta hướng đến hiện nay chính là mức thu nhập bình quân của Mỹ từ năm 1936. Chúng ta cần biết mình đang ở đâu, quy mô kinh tế ra sao và thực sự nhận thức rằng: nguồn lực lớn nhất không nằm ở đất đai, tài chính mà nằm ở trí tuệ của con người Việt Nam”.
Theo quan điểm của doanh nghiệp, cách tiếp cận mới trong phát triển khu vực tư nhân không nên chỉ dừng ở việc “cho” nguồn lực vật chất, như đất đai hay vốn vay. Điều cốt lõi là phải tạo môi trường để trí tuệ được phát huy tối đa. “Một doanh nghiệp công nghệ cao đến Việt Nam không chỉ vì chúng ta có khu công nghiệp công nghệ cao. Điều họ quan tâm là có được tự do phát triển hay không”, ông nói.
Theo ông, tự do ở đây không phải là vô hạn, mà là trong khuôn khổ pháp luật rõ ràng và minh bạch. Doanh nghiệp cần được tự do kinh doanh những gì pháp luật không cấm, được tự do sáng tạo, tự do huy động vốn hợp pháp, thay vì chịu sự bó buộc bởi thủ tục hành chính rườm rà hay các hạn chế từ chính sách ưu đãi thiếu phù hợp.
Từ góc độ hội nhập quốc tế, ông Thành cũng cho rằng một trong những yêu cầu của Mỹ đối với Việt Nam trong các cuộc đàm phán thương mại là cần xóa bỏ các hình thức trợ cấp không phù hợp. “Chúng ta cần nhận ra rằng cách hỗ trợ tốt nhất cho doanh nghiệp chính là tạo ra môi trường để họ tự đứng vững, tự vươn lên – chứ không phải chờ hỗ trợ từ các khoản vay hay ưu đãi một chiều”.
Trong bối cảnh chính sách thuế quan toàn cầu đang ngày càng khắt khe, đặc biệt là từ phía Mỹ, vị chuyên gia cho rằng doanh nghiệp Việt Nam không thể ngồi chờ nhà nước “ứng phó giúp”. “Một trong năm chủ trương quan trọng để ứng phó với các rào cản thương mại như thuế quan là chính doanh nghiệp phải tự đề xuất, tự kiến tạo thể chế phù hợp với thực tiễn kinh doanh”.
Ông lấy ví dụ: “Nếu thấy điều gì là hợp lý, phù hợp với quy luật thị trường và thúc đẩy sự phát triển bền vững, thì chúng ta – tức doanh nghiệp, hiệp hội – phải mạnh dạn đề xuất, đừng chờ đợi thể chế hoàn hảo từ trên xuống. Việc tạo lập môi trường kinh doanh là công việc hai chiều, trong đó doanh nghiệp phải là một chủ thể tích cực”.
12:31: "Phải xây dựng một thế hệ doanh nhân có trình độ, hiểu biết và ý thức trách nhiệm với xã hội"
Theo ông Trần Văn Lê, Chủ tịch Tập đoàn Phương Linh, Nghị quyết 68 là một chủ trương có ý nghĩa đặc biệt, được ban hành trong bối cảnh lịch sử quan trọng của đất nước và nền kinh tế. Tuy nhiên, để Nghị quyết này thực sự đi vào cuộc sống, điều cốt lõi là phải giải quyết môi trường cạnh tranh thiếu lành mạnh đang khiến giá trị gia tăng bị bào mòn, chi phí bị đội lên và lợi nhuận của doanh nghiệp bị triệt tiêu.
“Chiến lược Đại dương xanh là tạo ra thị trường mới, ít cạnh tranh, nhấn mạnh sự khác biệt và tối ưu chi phí. Nhưng với môi trường hiện tại, doanh nghiệp Việt đang đối mặt với vô số chi phí vô hình từ thủ tục hành chính cho tới các rào cản khác”, ông Lê đặt vấn đề.

Vị doanh nhân này cho rằng, điều nguy hiểm nhất hiện nay là Việt Nam vẫn chưa có luật chống bán phá giá – một công cụ then chốt để bảo vệ giá trị lao động và sản phẩm trong nước. “Nhiều quốc gia như Nhật Bản có những quy định chặt chẽ, đảm bảo tỷ suất lợi nhuận tối thiểu cho doanh nghiệp. Còn chúng ta thì sao?”, ông Lê trăn trở.
“Tôi chỉ muốn nói rằng: nếu chúng ta không thay đổi tư duy, không cải cách thể chế, thì không chỉ đại bàng không thể về làm tổ, mà có về rồi cũng sẽ rời đi vì không thể tồn tại được”, ông Lê cảnh báo.
Theo ông Trần Văn Lê, một trong những yêu cầu cấp thiết hiện nay là phải xây dựng được một thế hệ doanh nhân có trình độ, hiểu biết và ý thức trách nhiệm với xã hội, với quê hương đất nước.
“Tôi tham gia nhiều chương trình đào tạo, nhưng gần như chưa thấy ai sẵn sàng đầu tư để hỗ trợ đào tạo bài bản cho các chủ doanh nghiệp. Trong khi cả nước hiện có khoảng 940.000 doanh nghiệp, thì điều cấp bách nhất là người đứng đầu doanh nghiệp phải giỏi, có năng lực quản trị và chiến lược. Chúng ta cần có chương trình đào tạo thực chất để nâng tầm đội ngũ doanh nhân”, ông Lê nhấn mạnh.
Tựu trung, theo ông Trần Văn Lê, nếu có thể chế đủ mạnh để bảo vệ sự phát triển của doanh nghiệp chân chính, cùng với các chương trình đào tạo thiết thực nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ doanh nhân, thì nhiều tồn đọng hiện nay đang đè nặng lên khu vực kinh tế tư nhân hoàn toàn có thể được tháo gỡ.
12:15: "Nghị quyết 68 mang tư duy nhân văn trong xử lý vi phạm kinh tế"
Theo Luật sư Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch Công ty Luật SBLaw, Nghị quyết 68 đã đưa ra một số điểm mới quan trọng, bao gồm bổ sung các biện pháp chế tài ở cả ba lĩnh vực: dân sự, hành chính và hình sự.
Cụ thể, nếu doanh nghiệp hoặc doanh nhân có sai phạm về kinh tế, có thể xem xét xử lý bằng các biện pháp hành chính hoặc tài chính, tạo điều kiện để họ khắc phục hậu quả thay vì áp dụng ngay biện pháp hình sự.
Đặc biệt, với những trường hợp có thể xử lý hình sự nhưng hậu quả đã được khắc phục, Nghị quyết cho phép xem xét không khởi tố hình sự.
Vị chuyên gia đánh giá đây là bước tiến mang tính nhân văn, bởi trên thực tế, nhiều sai phạm kinh tế của doanh nhân – nhất là doanh nhân tư nhân – khi bị hình sự hóa sẽ kéo theo sự sụp đổ của cả doanh nghiệp. Việc cho phép doanh nghiệp sửa sai, khắc phục hậu quả rồi mới xem xét xử lý trách nhiệm tiếp theo là hướng đi rất đáng chú ý.
“Trong các vụ án hình sự hiện nay, nếu bị cáo chủ động khắc phục thiệt hại, cơ quan tố tụng có thể cân nhắc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là nếu hậu quả được khắc phục hoàn toàn thì có nên miễn truy cứu trách nhiệm hình sự hay không? Đây là vấn đề cần được làm rõ và thể chế hóa trong các văn bản pháp luật sắp tới”, ông Hà chia sẻ.
Bên cạnh đó, luật sư Nguyễn Thanh Hà cũng chỉ ra rằng cần có xác định rõ trách nhiệm hình sự của cá nhân và pháp nhân. Hiện nay, nhiều sai phạm xuất phát từ hành vi của cá nhân nhưng pháp nhân chỉ bị xử phạt nhẹ, chủ yếu là phạt tiền hoặc đóng cửa.
Theo ông Hà, trong thời gian tới, cần sửa đổi luật để tăng cường áp dụng các chế tài đối với pháp nhân thay vì chỉ tập trung vào cá nhân doanh nhân.

Về vấn đề thực thi hợp đồng, ông Hà cho hay Nghị quyết 68 đề cao vai trò của tư pháp. Theo vị luật sư, nợ đọng vẫn là vấn đề đáng chú ý tại Việt Nam. Thực tế việc thu hồi công nợ, đặc biệt là các khoản nợ nhỏ, đang gặp nhiều khó khăn. Ví dụ, doanh nghiệp bị nợ 100 triệu đồng nhưng nếu thuê luật sư, chi phí có thể lên đến 70 triệu đồng, chưa kể vé máy bay và phí thi hành án. Trong bối cảnh đó, cần nghiên cứu áp dụng thủ tục rút gọn – vốn đã được quy định trong Bộ luật Tố tụng Dân sự – cho các khoản nợ dưới 100 triệu đồng. Nếu thực hiện tốt, chỉ trong khoảng một tháng, vụ việc có thể được giải quyết dứt điểm.
Mặt khác, sau khi bỏ quy định về đòi nợ thuê, doanh nghiệp gần như không còn công cụ pháp lý phù hợp để thu hồi những khoản nợ nhỏ, dẫn đến tâm lý chấp nhận bỏ qua. Đây là một trong những điểm yếu mà Nghị quyết 68 đã nhận diện và hướng tới cải cách để hỗ trợ doanh nghiệp.
Ông Hà cũng đề cập đến tình huống phổ biến là doanh nghiệp tư nhân bị nợ bởi các cơ quan nhà nước hoặc doanh nghiệp nhà nước nhưng rất khó kiện, bởi nếu khởi kiện thì có thể ảnh hưởng đến việc xét thầu trong tương lai. “Muốn văn minh thì phải chấp nhận đưa nhau ra toà, và điều đó không thể là lý do để bị loại khỏi các gói thầu tiếp theo”, ông Hà nói và cho rằng cần có thêm cải cách để bảo vệ doanh nghiệp tư nhân trong các mối quan hệ yếu thế với các cơ quan nhà nước.
Một điểm sáng từ Nghị quyết 68 là tác động tích cực đến các cơ quan hành chính. Ông Hà dẫn chứng từ lĩnh vực sở hữu trí tuệ – nơi được xem là "cửa ngõ" tiếp nhận các thành quả sáng tạo của con người nhưng lại chậm trễ trong việc ứng dụng công nghệ. Nghị quyết đã nêu rõ yêu cầu số hóa, rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục.
“Cục Sở hữu trí tuệ hiện đã có những động thái chưa từng có, chủ động liên hệ với các luật sư để cùng thực hiện chiến dịch thúc đẩy cải cách. Đó là ảnh hưởng rất tích cực mà Nghị quyết mang lại, dù chưa cần phải thể chế hóa ngay bằng các văn bản sửa đổi”, ông Hà nhấn mạnh.
Tuy vậy, vị luật sư cũng chỉ ra rằng, Nghị quyết 68 vẫn chưa đề cập đến vai trò của thi hành án – một mắt xích then chốt trong thực thi pháp luật. Thực tế hiện nay là nhiều vụ kiện dù đã thắng án nhưng bên thắng vẫn không thể thu được tiền. Vì vậy, cần có cải cách sâu hơn trong hệ thống tư pháp, đặc biệt là cơ quan thi hành án dân sự.
“Hy vọng rằng, sau Nghị quyết 68 về cải cách thể chế và Nghị quyết 66 về xây dựng pháp luật, chúng ta sẽ có thêm một nghị quyết riêng về cải cách tư pháp để hỗ trợ doanh nghiệp phát triển. Bởi tư pháp luôn gắn chặt với phát triển kinh tế – nếu cải cách tư pháp chậm thì cải cách khu vực tư nhân và toàn nền kinh tế cũng sẽ bị chậm theo”, ông Hà bày tỏ.
12:00: Cần mạnh dạn giao việc và tạo điều kiện cho doanh nghiệp tư nhân
Tham gia phiên thảo luận tại tọa đàm, ông Nguyễn Hữu Hùng - Phó chủ tịch Tập đoàn Đèo Cả, đã nêu kiến nghị về môi trường phát triển và vai trò chiến lược của khu vực tư nhân.
Theo ông, Nghị quyết 68 là văn kiện mang tính đột phá, lần đầu tiên có một nghị quyết không chỉ đưa ra chiến lược tổng thể mà còn đi sâu vào các vấn đề tồn tại trong suốt 40 năm Đổi mới. “Chúng ta có nhiều thành tựu nhưng cũng còn đó những tồn tại lớn. Việc ghi nhận, xác định rõ và tìm cách tháo gỡ là điều rất đáng mừng. Đây là cơ hội để khu vực kinh tế tư nhân được nhìn nhận đúng vai trò, được tạo điều kiện để phát triển”, ông nói.
Đại diện Đèo Cả nhấn mạnh: “Chúng ta có hòa bình là nhờ sự hy sinh của cha ông. Nhưng trong thời bình, nhiệm vụ lớn nhất chính là phát triển kinh tế”. Theo ông, mỗi doanh nhân trên thương trường đều là một “chiến sĩ”, dù có thể hào nhoáng ở bề nổi, nhưng cũng có không ít người “ngã xuống” bởi những khó khăn, rủi ro, áp lực lớn từ thực tế.
Nghị quyết 68 đã thể hiện rõ vai trò trung tâm của doanh nghiệp trong công cuộc phát triển. Tuy nhiên, ông cho rằng ngoài sự ủng hộ từ Đảng, Nhà nước thì bản thân doanh nghiệp cũng phải thay đổi, chủ động đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng, quản trị, văn hóa và chiến lược phát triển.
Dẫn chứng từ chính chặng đường 40 năm của Đèo Cả – một trong những đơn vị tiên phong trong mô hình hợp tác công tư (PPP) – ông Hùng cho biết thành công lớn nhất đến từ khả năng kết hợp công nghệ và cách tiếp cận dự án hiện đại. “Nếu chỉ là một nhà đầu tư đơn thuần, chúng tôi đã không thể làm được các dự án quy mô như hầm Hải Vân 1, hầm Đèo Cả... Việc tiếp cận và làm chủ công nghệ của Nhật Bản giúp chúng tôi tiết kiệm tới 4.000 tỷ đồng. Điều đó mở ra cơ hội nội địa hóa công nghệ, tiến tới tự chủ trong các lĩnh vực như đào hầm hay đường sắt tốc độ cao”.

Từ đó, ông Hùng đề nghị: “Chúng ta phải mạnh dạn giao việc và tạo điều kiện cho doanh nghiệp tư nhân. Không nên để các tập đoàn lớn chi phối hết cơ hội, bởi nếu các doanh nghiệp nhỏ, nhất là ở địa phương, không được trao cơ hội, thì sau này đất nước sẽ thiếu vắng lực lượng thực thi dự án quan trọng”.
Nhìn từ góc độ doanh nghiệp, đại diện Đèo Cả nêu một loạt kiến nghị nhằm tạo dựng một môi trường phát triển lành mạnh, bền vững cho khu vực kinh tế tư nhân.
Thứ nhất, ông nhấn mạnh tới việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp: “Không chỉ lo cho cổ đông hay người lao động, doanh nghiệp còn phải có trách nhiệm với cộng đồng và đất nước. Tư nhân muốn được nhìn nhận là một thành phần kinh tế chủ lực thì phải thể hiện được văn hóa trách nhiệm”.
Thứ hai, cần phát huy tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; theo ông, đây là điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp tạo ra đột phá, bứt khỏi “vùng an toàn”. Nếu thiếu tinh thần này, nền kinh tế sẽ thiếu động lực đổi mới.
Thứ ba, ông Hùng đặt vấn đề về chiến lược phát triển nguồn nhân lực: “Chúng ta nói rất nhiều về hạ tầng, nhưng ai sẽ là người vận hành các công trình ấy? Nếu không có chuẩn bị dài hạn về đào tạo nhân lực cho từng ngành, từng vùng thì rất khó đi đến đích”. Ông cho rằng, các định hướng phát triển quốc gia phải đi kèm chiến lược nhân lực bài bản, bắt đầu từ bậc đào tạo.
Thứ tư, ông Hùng kêu gọi tư duy đổi mới sáng tạo, nhấn mạnh rằng sự khác biệt chỉ đến từ những cách nghĩ táo bạo, có cơ sở, có tầm nhìn, chứ không phải hành động liều lĩnh. “Chúng ta phải tạo ra sản phẩm, dịch vụ vượt trội bằng trí tuệ và công nghệ – không đi sau, không làm theo”, ông nói.
Cuối cùng, đại diện Đèo Cả cho rằng chính doanh nghiệp cũng cần soi lại mình, học cách tinh gọn bộ máy, nâng cao năng suất. “Nhìn vào bộ máy nhà nước, chúng ta thấy yêu cầu cải cách rất lớn, nhưng ngay cả doanh nghiệp cũng không ngoại lệ. Không thể quản trị bằng kinh nghiệm hay cảm tính mãi, chúng ta cần ứng dụng công nghệ để hiện đại hóa mô hình vận hành”.
Ông kết luận, từ nghị quyết đến hành động là một chặng đường dài, nhưng nếu không bắt tay vào việc thì mọi kế hoạch chỉ nằm trên giấy. “Đừng để động lực chỉ là lời hô hào. Kinh tế tư nhân cần không gian, cần niềm tin và quan trọng nhất – cần hành động cụ thể để cùng đất nước bước sang một giai đoạn phát triển mới”.
11:51: Cần xem xét lại sự ưu tiên về thủ tục hành chính, kỹ thuật và những rào cản vô hình trong tiếp cận đất đai
TS. Nguyễn Quốc Việt, nguyên Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách, nêu mối băn khoăn: Làm sao để sau Nghị quyết 68, kinh tế tư nhân có thể thực sự cất cánh và trở thành động lực phát triển của đất nước? Theo ông, đây không chỉ là câu hỏi mang tính thực tiễn mà còn là một bài toán lý luận cần lời giải rõ ràng.
Ông Việt cho hay khu vực kinh tế tư nhân từ các doanh nghiệp lớn cho đến hộ kinh doanh cá thể muốn vươn lên cần có những động lực thực chất. Đó không chỉ là khẩu hiệu hay tinh thần khuyến khích, mà là những chính sách cụ thể, chạm đến tận gốc các rào cản đang tồn tại.
Chẳng hạn, chính sách đất đai, chính sách nông nghiệp, hay quyền tham gia của hộ kinh doanh cá thể vào các cụm công nghiệp nếu vẫn duy trì mô hình cụm công nghiệp kiểu cũ, sẽ rất khó tạo ra đột phá. Bởi lẽ, khoảng cách giữa các doanh nghiệp nhỏ và các "ông lớn" đã chiếm lĩnh những vị trí thuận lợi là quá lớn.
Báo cáo Kinh tế thường niên năm nay cũng cho thấy rõ điều đó: cần nhìn nhận lại vai trò của đất đai - một trong những yếu tố sống còn, dưới góc nhìn của khu vực tư nhân. Theo ông Việt, cần xem xét lại sự ưu tiên về thủ tục hành chính, kỹ thuật và nhất là những rào cản vô hình trong tiếp cận nguồn lực này.
Nguồn vốn cũng là một điểm nghẽn đáng lưu ý. Ông Việt chỉ ra: hiện có đến 20% tín dụng đổ vào bất động sản, một tỷ lệ tương đương cho tiêu dùng, trong khi gần như toàn bộ tín dụng phục vụ sản xuất lại thuộc về khu vực tư nhân. Câu hỏi đặt ra là: nếu tín dụng được xem là một trong những động lực tăng trưởng quan trọng, thì dòng chảy hiện tại liệu có thực sự hợp lý?
Ông nhấn mạnh: “Cần nhìn lại dòng tín dụng đó có tạo ra sản xuất thực, tiêu dùng thực hay không? Hay đang bị nghẽn ở cả đầu cung và đầu cầu"?
Theo ông, kết nối giữa tín dụng và nhu cầu thực tế của thị trường là điều còn thiếu và cần được tháo gỡ.

Nhìn ra khu vực, ông Việt nhận định: tăng trưởng của ASEAN hai năm gần đây chủ yếu nhờ vào đầu tư tư nhân và tiêu dùng tư nhân, đặc biệt sau đại dịch COVID-19. Trong khi đó, ở Việt Nam, mối liên kết giữa sản xuất, đầu tư và tiêu dùng vẫn còn lỏng lẻo, thiếu những cơ chế kết nối hiệu quả.
Thực tế cho thấy, việc doanh nghiệp tiếp cận vốn để đổi mới sản xuất vẫn rất khó khăn. Do đó, ông cho rằng cần sớm thiết lập các chuẩn mực và thể chế vững chắc, tạo điều kiện để sản phẩm của doanh nghiệp có thể “lên được kệ”, từ đó nối liền chuỗi giá trị từ sản xuất đến tiêu dùng.
Một thách thức không kém phần quan trọng khác được ông nhấn mạnh là ứng dụng khoa học công nghệ và trí tuệ nhân tạo (AI) yếu tố có thể ảnh hưởng đến hàng triệu lao động.
Theo ông, AI và công nghệ đang dần trở thành hạt nhân trong các mô hình sản xuất công nghiệp mới. Tuy nhiên, hiện chúng ta đang có nhiều nghị quyết (như Nghị quyết 57, 66, 68), nhưng việc thiếu tích hợp và thống nhất giữa các chính sách đang khiến bài toán năng suất và đổi mới công nghệ khó có lời giải.
Ông kết luận: “Trong hệ sinh thái tương lai, AI sẽ giữ vai trò trung tâm. Nhưng để làm được điều đó, chúng ta cần một chiến lược tổng thể, đồng bộ, chứ không thể tiếp tục đi theo kiểu phân mảnh như hiện nay".
11:16: Cần có thêm một nghị quyết về công nghiệp và một nghị quyết về giáo dục
Luật sư Trần Hữu Huỳnh, nguyên Chủ tịch Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) cho rằng trong thời gian ngắn, chúng ta đã ban hành tới bốn nghị quyết quan trọng – trong đó có Nghị quyết 68 – thể hiện quyết tâm thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân.
Tuy nhiên, theo ông, điều cần thiết hiện nay là tư duy phát triển phải mang tính hệ thống và đồng bộ. “Bên cạnh 'bộ tứ nghị quyết' đã được ban hành, tôi cho rằng cần phải có thêm một nghị quyết về công nghiệp và một nghị quyết về giáo dục để tạo nên ‘bộ lục nghị quyết’. Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể định hình một chiến lược phát triển toàn diện và bền vững cho đất nước”, ông Huỳnh nhấn mạnh.
Ngoài ra, cũng như nhiều chuyên gia khác, ông Huỳnh nhận định tắc nghẽn thể chế vẫn là điểm nghẽn lớn nhất đối với sự phát triển – một vấn đề đã được nêu ra suốt hơn 20 năm qua nhưng đến nay vẫn chưa được tháo gỡ một cách thực chất.
“Chúng ta nói nhiều đến việc xây dựng nhà nước pháp quyền, phát triển kinh tế thị trường và xây dựng xã hội dân chủ. Nhưng ba trụ cột đó đã thực sự trở thành 'chân kiềng' vững chắc hay chưa? Nếu thực sự là chân kiềng, nó sẽ hỗ trợ cho thể chế như thế nào? Đây là những câu hỏi cần phải được bàn luận một cách rõ ràng và đến nơi đến chốn".
Theo ông, việc cấp bách lúc này là phải kiện toàn lại bộ máy, cải tiến quy trình xây dựng và thực thi chính sách – theo hướng vừa đảm bảo tính tuân thủ, vừa đề cao tính linh hoạt và khả năng phản ứng chính sách.
“Chúng ta không thể tiếp tục chỉ dừng ở khẩu hiệu hay tổng kết. Ví dụ như Nghị quyết 57 đã nêu ra tới 142 điều cần làm, rất cụ thể và thiết thực. Vậy với Nghị quyết 68, có bao nhiêu điều tương tự? Một điều quan trọng nữa là phải chỉ rõ biện pháp thực hiện, ai là người làm và ai là người chịu trách nhiệm. Nếu không, 10 năm nữa, chúng ta lại tiếp tục bàn về những ‘nút thắt thể chế’ như bây giờ”, ông nhấn mạnh.
Cuối cùng, Luật sư Trần Hữu Huỳnh đề xuất Tạp chí Đầu tư Tài chính – VietnamFinance tái bản đặc san Toàn cảnh Kinh tế tư nhân - một ấn phẩm mà ông cho là “rất giá trị và cần được lan tỏa rộng rãi trong bối cảnh hiện nay”.

11:10: Không có sự tham gia mạnh mẽ của khu vực tư nhân, không thể đạt được mục tiêu chiến lược về khoa học công nghệ
Phát biểu tại phần thảo luận, PGS.TS Lê Bộ Lĩnh, nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, bày tỏ sự nhất trí cao đối với các tham luận tại tọa đàm, đặc biệt là các ý kiến xoay quanh nhận thức về thể chế tư nhân.
“Phải khẳng định rằng, kinh tế tư nhân cũng mang định hướng XHCN, chứ không phải chỉ kinh tế nhà nước và trong nền kinh tế của chúng ta, tất cả các khu vực đều mang định hướng XHCN. Sở dĩ như vậy là vì kinh tế tư nhân, các chủ doanh nghiệp đều sinh ra trong thời kỳ thống nhất đất nước, chứ không phải chế độ cũ”, ông Lĩnh nhấn mạnh.
Vị chuyên gia cũng dẫn lại những con số ấn tượng được TS Lê Duy Bình nêu ra: khu vực kinh tế tư nhân đóng góp hơn 50% GDP, chiếm 82% lực lượng lao động, với mục tiêu trong tương lai là đạt 60% GDP và 86% lao động, chưa kể đến những đóng góp trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và các ngành then chốt khác.
PGS.TS Lê Bộ Lĩnh cũng lấy ví dụ về Trung Quốc, nơi kinh tế tư nhân đóng góp tới 70% hoạt động khoa học công nghệ. Theo vị chuyên gia, người Trung Quốc xác định rõ vai trò của kinh tế tư nhân như một bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế trong định hướng xã hội chủ nghĩa.

Tương tự, với Việt Nam, cũng cần xoá bỏ các rào cản nhận thức, rào cản tâm lý trong xã hội. “Còn về thể chế, đúng như TS Lê Xuân Nghĩa nói, không phải thể chế cho kinh tế tư nhân mà là thể chế cho kinh tế thị trường định hướng XHCN. Muốn phát triển kinh tế tư nhân thì phải đặt trong tổng thể cải cách kinh tế thị trường định hướng XHCN, trong đó có tương quan giữa các bộ phận khác của nền kinh tế”
PGS.TS Lê Bộ Lĩnh khẳng định rằng không có sự mâu thuẫn giữa kinh tế tư nhân và hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Vấn đề không nằm ở các chính sách riêng biệt cho khu vực tư nhân, mà là ở toàn bộ cấu trúc thể chế kinh tế. Rào cản lớn nhất chính là tư duy thể chế hiện tại, chưa theo kịp sự vận động của thực tiễn kinh tế.
PGS.TS Lê Bộ Lĩnh khẳng định rằng không có sự mâu thuẫn giữa kinh tế tư nhân và hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Vấn đề không nằm ở các chính sách riêng biệt cho khu vực tư nhân, mà là ở toàn bộ cấu trúc thể chế kinh tế. Rào cản lớn nhất chính là tư duy thể chế hiện tại, chưa theo kịp sự vận động của thực tiễn kinh tế.
Đề cập đến vai trò của khu vực tư nhân trong đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, ông nhấn mạnh: “Kinh tế tư nhân, kinh tế thị trường và phát triển khoa học công nghệ là ba động lực then chốt, phải được gắn kết chặt chẽ với nhau trên nền tảng kinh tế thị trường. Chỉ có như vậy mới tạo ra được những đột phá thực sự".
Ông dẫn chứng Nghị quyết 68 đã xác định rõ kinh tế tư nhân là lực lượng tiên phong trong thực hiện thành công Nghị quyết 57 – một động lực thể chế quan trọng để thúc đẩy các chính sách phát triển kinh tế nói chung và công nghệ nói riêng. Ngay cả mục tiêu đầu tư 2% GDP cho khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo cũng sẽ không thể thực hiện được nếu chỉ trông chờ vào ngân sách nhà nước – vốn hiện mới đáp ứng khoảng 0,8%. Phần còn lại phải đến từ xã hội, trong đó doanh nghiệp tư nhân đóng vai trò chủ đạo. Nếu không có sự tham gia mạnh mẽ của khu vực này, mục tiêu chiến lược về khoa học công nghệ sẽ không thể đạt được.
“Tôi hoàn toàn đồng tình với quan điểm của TS Lê Xuân Nghĩa rằng nhà nước không chỉ nên huy động nguồn lực từ khu vực tư nhân, mà còn cần chủ động hỗ trợ họ bằng nguồn lực công, đồng thời tạo điều kiện cho họ tiếp cận các nguồn lực quốc gia. Trước đây, ngân sách chủ yếu tài trợ cho khu vực công, trong khi Nghị quyết 68 đã chỉ rõ rằng cần 'cởi trói' để khu vực tư nhân có thể tiếp cận các nguồn lực này".
Ông cũng nhấn mạnh vai trò của chính sách công nghiệp – không đơn thuần là chính sách theo thành phần kinh tế, mà là định hướng ưu tiên quốc gia: “Chính sách công nghiệp là kim chỉ nam. Nếu không có chính sách rõ ràng thì chẳng khác nào bảo mọi người cùng lên sàn nhảy, nhưng không ai biết đang nhảy điệu gì – nhảy một lúc thì không còn biết đang nhảy gì nữa".
Theo ông, chính sách công nghiệp không phân biệt khu vực công hay tư, mà tập trung vào việc xác định lực lượng nào làm tốt thì được tham gia. Ví dụ như công nghiệp bán dẫn hay các lĩnh vực công nghệ chiến lược được nêu trong Nghị quyết 57 – miễn là ai làm tốt thì cần được trao cơ hội, nhà nước phải hỗ trợ bằng chính sách rõ ràng và thiết thực.
Ông dẫn lại thực tiễn toàn cầu để nhấn mạnh luận điểm: “Ngay cả Google hay Apple cũng từng nhận được sự hỗ trợ rất lớn từ nhà nước. Không phải vì họ là tư nhân, mà vì họ phù hợp với chính sách phát triển ngành. Trên thế giới, các tập đoàn công nghệ lớn, các kỳ lân đều là doanh nghiệp tư nhân, bởi họ là lực lượng năng động nhất, dẫn dắt đổi mới và thúc đẩy cạnh tranh thị trường".
PGS.TS Lê Bộ Lĩnh kỳ vọng chính khu vực này sẽ tạo ra những đột phá thực sự trong tương lai. Tuy nhiên, ông cũng thẳng thắn chỉ ra rằng thể chế xã hội hiện nay vẫn đang kìm hãm sự phát triển của khu vực tư nhân. “Chúng ta vẫn còn tâm lý e dè, thậm chí ghét bỏ người giàu. Tư duy này cần được thay đổi. Chúng ta từng là một xã hội tiểu nông, phong kiến, thuộc địa – vì vậy, muốn phát triển, phải đổi mới sâu sắc cả về thể chế chính trị lẫn tâm lý xã hội".
10:50: Cần khơi thông nguồn vốn một cách thực chất và hiệu quả cho kinh tế tư nhân
Theo PGS.TS Nghiêm Thị Thà, Tổng thư ký Hiệp hội Tư vấn Tài chính Việt Nam (VFCA), kinh tế tư nhân đang ngày càng khẳng định vai trò chủ lực trong nền kinh tế Việt Nam.
Niên giám thống kê năm 2023 cho biết cả nước có hơn 940.000 doanh nghiệp tư nhân, 5,1 triệu hộ kinh doanh và 3.200 hợp tác xã đang hoạt động, đóng góp trên 50% GDP, hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước và sử dụng khoảng 82% tổng số lao động. Nhiều doanh nghiệp như Vingroup, FPT, Vinamilk đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu tại thị trường khu vực và toàn cầu.
Trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước đang phục hồi mạnh mẽ, phát triển kinh tế tư nhân trở thành yêu cầu cấp thiết nhằm tạo động lực tăng trưởng mới. Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị đã xác định: “Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia.”
Tuy nhiên, để khu vực này phát triển bền vững, vấn đề then chốt hiện nay là phải khơi thông các dòng vốn – cả ngắn hạn và dài hạn – một cách thực chất và hiệu quả.
Về nguồn vốn ngắn hạn, khu vực kinh tế tư nhân đang chiếm khoảng 50% tổng dư nợ toàn hệ thống ngân hàng, tương đương gần 7 triệu tỷ đồng. Tuy nhiên, doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn phải chịu mức lãi suất vay thương mại dao động 9% – 11%/năm, cao hơn mặt bằng chung trong khu vực ASEAN (6% – 7%/năm).
Khó khăn lớn nằm ở khả năng tiếp cận tín dụng, đặc biệt đối với các hộ kinh doanh cá thể. Theo khảo sát của VCCI năm 2023, có đến 45% doanh nghiệp nhỏ và vừa cho biết gặp khó khăn trong tiếp cận tín dụng do thiếu tài sản đảm bảo hoặc không đáp ứng được yêu cầu hồ sơ tài chính. Dù Nghị định 13/2023/NĐ-CP về cơ chế thử nghiệm Fintech trong ngân hàng đã có hiệu lực, nhưng kết quả triển khai vẫn còn hạn chế.
Ở góc độ vốn dài hạn, khu vực tư nhân Việt Nam mới chỉ huy động được khoảng 13% vốn qua thị trường chứng khoán – con số khiêm tốn so với mức 40% – 60% ở các nước phát triển. Số lượng quỹ đầu tư mạo hiểm cũng còn ít, chỉ khoảng 30 quỹ đang hoạt động và chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghệ, trong khi các lĩnh vực then chốt như nông nghiệp, công nghiệp hỗ trợ, logistics vẫn “khát vốn”.
Tỷ lệ doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các dự án đối tác công tư (PPP) cũng rất thấp, chỉ chiếm khoảng 5% tổng số dự án công trong giai đoạn 2016–2023, theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Thực tế trên cho thấy, việc huy động vốn cho khu vực kinh tế tư nhân hiện còn vướng nhiều điểm nghẽn. Thứ nhất là thiếu đa dạng về kênh huy động vốn, khi phần lớn vẫn phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng. Thứ hai là hệ thống pháp lý liên quan đến tài chính và đầu tư tư nhân còn thiếu đồng bộ, đặc biệt chưa có cơ chế chia sẻ rủi ro giữa nhà nước và tư nhân.

Thứ ba, chính sách khuyến khích đầu tư tài chính dài hạn và vốn mạo hiểm chưa đủ hấp dẫn. Cuối cùng, việc thiếu các tổ chức xếp hạng tín nhiệm và công cụ đánh giá năng lực tài chính khiến các doanh nghiệp tư nhân khó tạo được niềm tin với nhà đầu tư.
Trước những thách thức đó, một loạt giải pháp được đề xuất nhằm cải thiện môi trường tài chính cho khu vực tư nhân. Trước hết, cần hoàn thiện khung pháp lý và chính sách tài chính, thông qua việc xây dựng luật hoặc nghị định riêng về tài chính cho khu vực kinh tế tư nhân. Đồng thời, cần sửa đổi các luật liên quan như Luật Hỗ trợ DNNVV 2017, bổ sung cơ chế bảo lãnh tín dụng, ưu đãi thuế cho doanh nghiệp đổi mới sáng tạo.
Một đề xuất đáng chú ý là thành lập Quỹ Phát triển tài chính tư nhân quốc gia nhằm cung cấp tín dụng ưu đãi dài hạn.
Bên cạnh đó, cần phát triển các kênh huy động vốn đa dạng hơn. Việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp theo chuẩn quốc tế là một hướng đi khả thi – điển hình như Trung Nam Group đã phát hành thành công hơn 3.000 tỷ đồng trái phiếu xanh cho dự án năng lượng tái tạo tại Ninh Thuận.
Nhà nước cũng cần khuyến khích hình thành các quỹ đầu tư tư nhân theo mô hình “matching fund” – đối ứng giữa nguồn vốn công và tư, tương tự như Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia.
Đặc biệt, cần xây dựng hệ sinh thái hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo gồm trung tâm ươm tạo, quỹ thiên thần, dịch vụ tư vấn pháp lý – tài chính và ứng dụng công nghệ tài chính như P2P lending, eKYC, gọi vốn cộng đồng một cách hiệu quả và có kiểm soát.
Hợp tác công – tư (PPP) cũng là một trụ cột quan trọng. Cần rà soát lại Luật PPP và các nghị định hướng dẫn để đơn giản hóa thủ tục lựa chọn nhà đầu tư tư nhân. Dự án cao tốc Bắc – Nam đoạn Diễn Châu – Bãi Vọt đã chứng minh nếu có cơ chế chia sẻ rủi ro rõ ràng thì PPP hoàn toàn có thể thành công.
Ngoài hạ tầng giao thông, cần thí điểm PPP trong các lĩnh vực xã hội thiết yếu như giáo dục, y tế và xử lý nước thải với quy mô phù hợp.
Một khía cạnh không thể bỏ qua là nâng cao năng lực tài chính và quản trị cho khu vực tư nhân. Theo ADB, chỉ 21% DNNVV tại Việt Nam có hệ thống kế toán theo chuẩn mực quốc tế – yếu tố khiến họ khó tiếp cận vốn quốc tế. Trong 5,2 triệu hộ kinh doanh cá thể hiện nay, chỉ có 2,1 triệu hộ đóng thuế, còn lại 3 triệu hộ chưa có đóng góp vào ngân sách. Việc chuyển đổi các hộ kinh doanh sang mô hình doanh nghiệp siêu nhỏ hoặc hợp tác xã cần được hỗ trợ thông qua các hiệp hội nghề nghiệp. Chương trình SME Link của USAID kết hợp với VCCI là một ví dụ điển hình, khi đã giúp hơn 500 doanh nghiệp hoàn thiện hồ sơ tín dụng đạt chuẩn, tiếp cận hơn 1.000 tỷ đồng vốn vay chỉ trong năm 2023.
“Tóm lại, việc huy động hiệu quả các nguồn lực tài chính, cả ngắn hạn lẫn dài hạn, chính là nền tảng để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển bền vững. Để thực hiện được điều này, cần có sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa nhà nước, hệ thống tài chính – ngân hàng, các nhà đầu tư và bản thân các doanh nghiệp tư nhân.
Trong bối cảnh Nghị quyết 68 đã xác định kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất, khơi thông các dòng vốn cho khu vực này không chỉ là yêu cầu cấp bách, mà còn là chiến lược then chốt để phát triển kinh tế quốc gia trong giai đoạn mới”, PGS.TS. Nghiêm Thị Thà cho biết.
10:30: "Nghị quyết 68 tạo nền tảng cho nền kinh tế bước vào và duy trì quỹ đạo tăng trưởng cao trong nhiều năm tới"
TS Lê Duy Bình, Giám đốc Economica Việt Nam, cho hay nhìn lại quá trình từ Đổi mới đến nay, khu vực kinh tế tư nhân đã có những đóng góp vô cùng mạnh mẽ. Hàng triệu hộ sản xuất nông nghiệp và cá thể kinh doanh đã tạo nên một lực lượng kinh tế lớn, góp phần quan trọng vào sự phát triển nhanh chóng của đất nước.
Nếu không có sự đóng góp đó, chắc chắn chúng ta sẽ không thể đạt được tốc độ tăng trưởng như hiện nay. Kinh tế tư nhân đã góp phần tạo ra những dấu ấn đặc biệt về sự tăng trưởng kinh tế đi kèm với các tiến bộ xã hội, các yếu tố xã hội, bình đẳng, môi trường, sinh thái.
“Ví dụ cụ thể nhất là tỷ lệ hộ nghèo đã giảm mạnh từ 58% theo chuẩn cũ năm 1993 của Chính phủ xuống còn 1,93% theo chuẩn nghèo đa chiều vào năm 2024, đưa Việt Nam trở thành hình mẫu nổi bật về nỗ lực xóa đói giảm nghèo trong số các quốc gia đang phát triển”, ông Bình nói.
Bên cạnh đó, chỉ số phát triển con người (HDI) liên tục cải thiện, đạt 0,73 điểm năm 2023, cao hơn nhiều so với các nước có cùng mức thu nhập và nằm trong top 5 trong khu vực ASEAN. Những con số và thực tế này cho thấy kinh tế tư nhân đã góp phần quan trọng cho định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường tại Việt Nam.

Một góc nhìn khác, theo ông Bình, khi xét về đặc trưng của mô hình XHCN là “dân giàu, nước mạnh”, chúng ta có thể thấy vào năm 2024, GDP bình quân đầu người của nước ta đạt 4.700 USD, tiếp cận ngưỡng thu nhập trung bình cao. Mức thu nhập này cao gấp 50 lần so với thời điểm năm 1986, khi Việt Nam bắt đầu công cuộc Đổi mới.
“Hiện nay tầng lớp trung lưu, tức là những người có mức chi tiêu bình quân đầu người 11 - 110 USD/ngày, đang hình thành nhanh chóng ở các đô thị lớn, hiện chiếm khoảng 13% dân số và sẽ tăng lên đến 26% vào năm 2026. Dự báo trong 25 năm tới, một nửa dân số nước ta sẽ gia nhập tầng lớp trung lưu”, ông Bình khẳng định.
Theo thống kê của Tạp chí Forbes (Mỹ), Việt Nam hiện có khoảng 5-6 tỷ phú USD. Kinh tế tư nhân đã góp phần giúp chúng ta dần dần hiện thực hoá mục tiêu “dân giàu”. Kinh tế tư nhân cũng đóng góp cho mục tiêu “nước mạnh”. Từ góc độ kinh tế, nước mạnh có thể được nhìn nhận từ góc độ giá trị thương hiệu quốc gia của Việt Nam, khi giá trị này cho tới nay đạt 507 tỷ USD, xếp hạng 32 thế giới.
Kinh tế tư nhân, theo ông Bình, không chỉ góp phần vào tăng trưởng kinh tế mà còn xây dựng hệ thống an sinh xã hội, mở rộng độ bao phủ bảo hiểm, tính đến cuối năm 2024, có tới 19 triệu người lao động tư nhân tham gia BHXH.
Sự đóng góp của khu vực này vào ngân sách là rất lớn, là điều kiện để nhà nước thực hiện nhiều chương trình vì dân như y tế miễn phí, giáo dục, hỗ trợ người yếu thế.
Một cách ngắn gọn, ý nghĩa của Nghị quyết 68 không chỉ nằm ở mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng của khu vực kinh tế tư nhân, tạo nền tảng cho nền kinh tế bước vào và duy trì quỹ đạo tăng trưởng cao trong nhiều năm tới, mà còn ở sự khẳng định kinh tế tư nhân không mâu thuẫn với con đường xã hội chủ nghĩa, định hướng XHCN. Nếu được phát triển đúng hướng, đây sẽ là một động lực vô cùng quan trọng để phát huy định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường và hiện thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
10:10: Đã đến lúc cần trả doanh nghiệp tư nhân về đúng vị trí mà họ xứng đáng được hưởng
TS Bùi Thanh Minh - Phó giám đốc chuyên môn, Văn phòng Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV) – bày tỏ sự đồng cảm sâu sắc với những quan điểm của TS Lê Xuân Nghĩa. Theo ông, các chia sẻ tại diễn đàn đã góp phần soi sáng thêm nhiều khía cạnh lý luận quan trọng, đặc biệt là khi đội ngũ xây dựng Nghị quyết 68 phải chịu áp lực rất lớn.
Sức ép này, theo ông Minh, một phần đến từ cái bóng quá lớn của Nghị quyết 57 – một văn bản được đánh giá là thành công và tạo tiếng vang, nhưng đến khâu thực thi lại gặp thách thức. Làm thế nào để triển khai 142 đầu việc cụ thể là một bài toán nan giải.
Ông chia sẻ rằng, khi Ban Chiến lược bắt đầu phối hợp với Ban IV để xây dựng Nghị quyết, ban đầu trong văn bản chưa có chữ “một” mà chỉ nêu: “động lực quan trọng nhất cho tăng trưởng”.
Nhưng vì sao lại là "quan trọng nhất"? Ông Minh lý giải rằng khu vực kinh tế nhà nước đã gần chạm trần với tỷ trọng khoảng 20% và gần như không tăng thêm. Trong khi đó, khu vực FDI cũng đạt đỉnh từ năm 2019 với tỷ trọng 22% và gần như đứng yên từ đó đến nay, bởi lẽ phần lớn chỉ tham gia vào hoạt động gia công, thâm dụng lao động và thâm dụng vốn lớn. Nếu muốn tạo ra giá trị gia tăng cao hơn, thì phải chuyển mình sang những lĩnh vực như bán dẫn, AI. Nhưng đây là hành trình khó khăn khi chúng ta đi sau thế giới tới 50 năm.
“Vì thế, Nghị quyết 68 được xây dựng với một cách tiếp cận khác biệt: liên tục đối thoại với doanh nghiệp, doanh nhân để mang vào “tiếng nói từ thực tiễn”, ông Minh nhấn mạnh.
Nói về bối cảnh ra đời của Nghị quyết 68, ông Bùi Thanh Minh gọi đây là “Đổi mới 2.0”. Nếu Đổi mới năm 1986 đưa đất nước thoát khỏi nghèo đói và thiết lập nền tảng phát triển, thì nay, mục tiêu không chỉ dừng ở thu nhập trung bình mà là đạt ngưỡng thu nhập cao vào năm 2045.
Để hiện thực hóa mục tiêu đó, tăng trưởng GDP năm nay phải đạt 8% và từ năm 2026 phải đạt 10% – một mục tiêu đầy tham vọng. Bởi lẽ, quy mô nền kinh tế càng lớn thì tốc độ tăng trưởng càng khó duy trì ở mức cao. Nếu không đạt tối thiểu 6,6% mỗi năm, Việt Nam có nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình.
Trong lịch sử, rất ít quốc gia duy trì được mức tăng trưởng hai con số trong thời gian dài, ngoại trừ những mô hình Đông Á như Hàn Quốc, Nhật Bản – nhưng giờ đây đã không phù hợp.

Ông Minh thẳng thắn nhìn nhận, nếu không có Nghị quyết 57, không có tư duy đổi mới sáng tạo thì Việt Nam không có cánh cửa nào để bước lên nấc thang phát triển tiếp theo. “Tuy nhiên, đâu đó chúng ta đã quá hài lòng, sống thoải mái trong suốt 30 năm, kể từ năm 1995 đến nay”, ông Minh đặt vấn đề.
Theo vị chuyên gia, nền kinh tế phần nào đã “ngủ quên” trong thành công, sống tương đối thoải mái. Nhưng ở giai đoạn phát triển mới, chỉ có nâng cao hiệu quả và thúc đẩy đổi mới sáng tạo mới là con đường khả thi. Và cũng vì vậy, Nghị quyết 57 ra đời, đặt nền móng cho sự chuyển mình của khu vực tư nhân.
Về Nghị quyết 68, ông Minh nhấn mạnh, đây không phải là câu chuyện ưu tiên khu vực tư nhân, mà là vấn đề về luật chơi – khu vực này chỉ cần được tự do và bình đẳng để làm tốt công việc của mình. Ông ví von, một doanh nhân cũng giống như người lái xe: họ muốn đi xa, đi nhanh, đi an toàn, cái họ sợ không phải là ổ gà, lúc đó họ có thể giảm tốc. Một thực tế được chỉ ra:
Toàn văn Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân
Biệt thự 4.000m² của bà chủ Mailisa ở TP. HCM bị cảnh sát phong tỏa, khám xét
(VNF) - Khoảng 100 cảnh sát thuộc Bộ Công an và Công an TP. HCM đã phong tỏa, làm việc xuyên suốt tại dinh thự của vợ chồng chủ hệ thống thẩm mỹ Mailisa tại khu vực Thới An, quận 12 (cũ), TP. HCM.
Tổng Bí thư: 'Sân bay Long Thành chậm ngày nào, đất nước thiệt ngày ấy'
(VNF) - Nhấn mạnh sân bay Long Thành là hạ tầng quan trọng, Tổng Bí thư yêu cầu không thể chậm trễ được, chậm ngày nào là đất nước thiệt ngày ấy.
Lực lượng công an làm việc tại thẩm mỹ viện Mailisa Đà Nẵng và Hà Nội
(VNF) - Lực lượng công an Đà Nẵng đã có mặt tại cơ sở Thẩm mỹ viện Mailisa Đà Nẵng tại số 97-99 Nguyễn Văn Linh (phường Hải Châu) để tiến hành làm việc.
Công an đồng loạt xuất hiện tại nhiều cơ sở thẩm mỹ viện Mailisa
(VNF) - Xe biển số xanh và nhiều cảnh sát xuất hiện tại thẩm mỹ viện Malisa trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk và cả ở TP. HCM.
Quốc hội 'chốt' GDP năm 2026 tăng ít nhất 10%, kiểm soát thị trường vàng và bất động sản
(VNF) - Quốc hội đặt mục tiêu năm 2026 GDP tăng từ 10% trở lên, đồng thời quản lý hiệu quả thị trường vàng, thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán.
Singapore thành mảnh đất màu mỡ cho tội phạm lừa đảo
(VNF) - Ngày càng nhiều tổ chức lừa đảo đến Singapore để rửa tiền bằng cách mua bất động sản, làm từ thiện và thành lập công ty. Số vụ lừa đảo tại quốc đảo này cũng tăng chóng mặt trong những năm qua.
Công nghệ giúp Masan tiết kiệm 300 tỷ chi phí
(VNF) - Tại buổi họp trực tuyến với cổ đông chiều 29/10, ông Danny Le, Tổng giám đốc Tập đoàn Masan (HoSE: MSN) cho biết kỳ vọng đến giai đoạn 2029 – 2030, kênh bán lẻ hiện đại (MT) sẽ chiếm khoảng 25 – 30% thị trường bán lẻ Việt Nam. Tính đến cuối quý III/2025, WinCommerce, thành viên của Tập đoàn Masan, đã có hơn 4.300 điểm bán trên toàn quốc.
'Không nên chạy theo phần ngọn, bơm tiền để tạo đà tăng trưởng'
(VNF) - GS.TS. Vũ Minh Khương - Giảng viên Trường Chính sách công Lý Quang Diệu (Singapore) cho rằng, để Việt Nam vươn tới đẳng cấp toàn cầu như Singapore hay Hàn Quốc, tăng trưởng kinh tế cần đạt mức 10 – 12%/năm. Tuy nhiên, tăng trưởng không thể chỉ dựa vào “bơm tiền” mà phải được xây trên nền tảng thể chế vững chắc và đầu tư cho con người.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để phát triển đất nước
(VNF) - Tạp chí Đầu tư Tài chính trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm với tiêu đề: “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để phát triển đất nước.
Bắt tạm giam Tổng giám đốc Công ty Dầu khí Nam Sông Hậu
(VNF) - Bộ Công an đã khởi tố, bắt tạm giam ông Ranjit Thambyrajah, Tổng Giám đốc CTCP Thương mại Đầu tư Dầu khí Nam Sông Hậu vì hành vi lừa đảo.
ĐBQH đặt vấn đề 'đưa vàng vào danh mục hàng hóa bình ổn giá'
(VNF) - Theo đại biểu Quốc hội, vàng không phải mặt hàng thiết yếu nhu cầu của người dân, nhưng người dân lại xem vàng rất là quan trọng.
Hai năm chỉ mua 1 dãy số, thanh niên tại Khánh Hòa trúng giải Vietlott 133 tỷ đồng
(VNF) - Kiên trì với dãy số ngày tháng sinh và biển số xe trong vòng 2 năm liền, nam thanh niên tại Khánh Hòa đã trúng giải Vietlott 133 tỷ đồng.
Cao tốc Bắc Giang – Lạng Sơn: 5 năm vận hành vẫn chưa hết vướng
(VNF) - Hơn 5 năm kể từ khi đi vào khai thác phục vụ người dân, những vướng mắc kéo dài tại dự án cao tốc Bắc Giang – Lạng Sơn vẫn chưa được xử lý dứt điểm. Trong kết luận mới nhất tháng 10/2025, Thanh tra Chính phủ chỉ ra lưu lượng phương tiện thực tế thấp hơn nhiều so với dự báo ban đầu, dẫn tới thâm hụt doanh thu, phương án tài chính đã phê duyệt của dự án không còn đảm bảo để thực hiện.
Chào bán quả bóng đá đặc biệt ủng hộ chương trình xây nhà tình thương của VietnamFinance Foundation
(VNF) – Quả bóng lưu niệm đặc biệt của trận bóng đá tranh siêu cúp Việt Nam 2025 sẽ được chào bán để ủng hộ chương trình xây nhà tình thương của VietnamFinance Foundation.
Ông Trần Huy Tuấn được giới thiệu để bầu làm Chủ tịch tỉnh Ninh Bình
(VNF) - Ông Trần Huy Tuấn, Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai được điều động giữ chức Phó Bí thư Tỉnh ủy Ninh Bình nhiệm kỳ 2025-2030 và giới thiệu để bầu giữ chức vụ Chủ tịch UBND tỉnh Ninh Bình nhiệm kỳ 2021-2026.
DIC Corp tái cấu trúc nợ, chi 800 tỷ mua lại trái phiếu trước hạn
(VNF) - DIC Corp đã phê duyệt kế hoạch thu hồi trước hạn 800 tỷ đồng trái phiếu DIGH2326002 từ nguồn vốn chưa giải ngân của lô trái phiếu này.
Ông Phạm Quang Ngọc được giới thiệu để bầu làm Chủ tịch tỉnh Hưng Yên
(VNF) - Ông Phạm Quang Ngọc, Phó bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Ninh Bình, được Ban Bí thư điều động, chỉ định giữ chức Phó bí thư Tỉnh ủy Hưng Yên nhiệm kỳ 2025-2030.
Cục Thuế triển khai ‘60 ngày đêm’ chuẩn hóa kê khai thuế
(VNF) - Cục Thuế phối hợp Sapo phát động chiến dịch “60 ngày đêm” hỗ trợ chuyển đổi sang kê khai thuế điện tử, nhằm chuẩn hoá kê khai và giảm rủi ro pháp lý cho hộ kinh doanh.
Hạ tầng blockchain 'make in Việt Nam' chính thức khởi động tại Đà Nẵng
(VNF) - Nền tảng công nghệ chuỗi khối OnusChain được phát triển như hạ tầng blockchain Việt Nam, nền tảng phục vụ chuyển đổi số quốc gia, kết nối giáo dục – doanh nghiệp – hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, hướng tới một nền kinh tế tri thức minh bạch và bền vững.
TP. HCM: 500 CEO quốc tế và trong nước dự sự kiện kinh tế quy mô lớn nhất năm
(VNF) - TP. HCM tổ chức Diễn đàn Kinh tế mùa thu năm 2025 từ 24- 30/11, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Phạm Minh Chính. Diễn đàn dự kiến có sự hiện diện và tham gia của nhiều tập đoàn công nghệ, logistics, năng lượng, tài chính, đô thị thông minh cũng như các tổ chức học thuật, nghiên cứu hàng đầu Việt Nam và thế giới.
Nâng hạng TTCK: Sẽ có 4 cổ phiếu 'lớn' trong rổ FTSE Global All Cap Index?
(VNF) - FTSE Russell mới đây liệt kê 28 cổ phiếu Việt Nam đáp ứng đủ tiêu chí để vào rổ FTSE Global All Cap Index sau khi thị trường chứng khoán được nâng hạng.
Skoda mở rộng nhà máy, chuẩn bị ra mắt xe điện tại Việt Nam
(VNF) - Skoda, nhà sản xuất ô tô lớn nhất Cộng hòa Czech, dự kiến sẽ mở rộng nhà máy tại Việt Nam để sản xuất xe điện, theo Nikkei Asia.
'Bộ Công an điều tra, xử lý môi giới thao túng hồ sơ mua NƠXH'
(VNF) - Thủ tướng yêu cầu Bộ Công an chỉ đạo điều tra, xử lý các trường hợp môi giới trái phép, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thao túng hồ sơ mua nhà ở xã hội.
Hải Phòng giao 20ha đất cho Hạ tầng Bảo Tín thực hiện dự án tại khu Vụng Xéc
(VNF) - Hải Phòng vừa ban hành quyết định giao 20ha đất cho Công ty Cổ phần Hạ tầng Bảo Tín để thực hiện Dự án đấu giá quyền sử dụng đất thu hồi tại khu Vụng Xéc.
Đề xuất bổ sung phương thức thi hành án với tài sản số
(VNF) - Đại biểu Nguyễn Hoàng Bảo Trân cho rằng dự thảo Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) cần cập nhật phương thức thi hành đối với tài sản điện tử và công nghệ số, nhất là trong các vụ án dân sự có yếu tố công nghệ cao.
Biệt thự 4.000m² của bà chủ Mailisa ở TP. HCM bị cảnh sát phong tỏa, khám xét
(VNF) - Khoảng 100 cảnh sát thuộc Bộ Công an và Công an TP. HCM đã phong tỏa, làm việc xuyên suốt tại dinh thự của vợ chồng chủ hệ thống thẩm mỹ Mailisa tại khu vực Thới An, quận 12 (cũ), TP. HCM.
Tìm hiểu NƠXH giá 20 triệu/m2 liền kề Noble Palace Tay Thang Long
(VNF) - Dự án Nhà ở xã hội Đức Thượng có quy mô 20 tầng, được xây dựng trên lô đất 2,6ha tại xã Hoài Đức, Hà Nội.


































































