'Thăm' khu đất xây 365 căn nhà ở xã hội ngay trong nội đô Hà Nội
(VNF) - Dự án nhà ở xã hội NO1 thộc Khu đô thị mới Hạ Đình, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân và xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.
Phát biểu khai mạc toạ đàm, ông Hoàng Anh Minh, Tổng biên tập Tạp chí Đầu tư Tài chính -VietnamFinance, Phó chủ tịch Hiệp hội Tư vấn Tài chính Việt Nam, cho biết theo Chiến lược phát triển kinh tế xã hội được Đại hội Đảng lần thứ XIII thông qua vào tháng 2/2021, kinh tế số là “một trong những động lực tăng trưởng trong những thập kỷ tới, cho phép Việt Nam đạt được mục tiêu trở thành nền kinh tế thu nhập cao vào năm 2045”.
Dẫn nguồn nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, ông Hoàng Anh Minh cho hay: “Nếu giả định rằng các ngành công nghệ số tăng trưởng với tốc độ khoảng 10% mỗi năm, lợi ích lũy kế của nền kinh tế sẽ đạt trên 200 tỷ USD trong giai đoạn 2021-2045, gần bằng GDP của Việt Nam hiện nay”.
Theo ông Hoàng Anh Minh, trên thực tế, quá trình chuyển đổi số của Việt Nam đã và đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ trên nhiều phương diện.
“Đặc biệt, trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng, câu chuyện chuyển đổi số đã diễn ra một cách sâu rộng và ngày càng chứng minh sự cần thiết, tính đúng đắn và hiệu quả. Một ví dụ rất đơn giản là giờ đây, chỉ với một chiếc điện thoại thông minh, một cá nhân đã có thể giải quyết vô vàn vấn đề của đời sống”, ông Hoàng Anh Minh nhấn mạnh.
Theo quan sát của ông Hoàng Anh Minh, với sự phát triển không ngừng của công nghệ, mỗi ngày chúng ta lại được chứng kiến sản phẩm, dịch vụ, xu hướng mới.
“Trong niềm tin rằng thị trường tài chính nói riêng, nền kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục quỹ đạo phát triển đã và đang được tạo dựng lâu nay, Tạp chí Đầu tư Tài chính nhận thấy trách nhiệm của mình trong việc góp thêm tiếng nói để thúc đẩy sự phát triển ấy”, ông Hoàng Anh Minh nhấn mạnh.
Ông Hoàng Anh Minh khẳng định việc xuất bản Đặc san Tương lai Tài chính số là một trong những hoạt động nằm trong kế hoạch phát triển các nội dung về kinh tế tài chính số trong tương lai. "Với kế hoạch này, chúng tôi cam kết sẽ luôn đồng hành cùng sự phát triển của thị trường".
“Rất đáng mừng khi kế hoạch này đã nhận được sự đồng thuận, hỗ trợ hết mình của các lãnh đạo Chính phủ, các bộ ngành chức năng, các chuyên gia kinh tế tài chính hàng đầu, các doanh nhân, nhà quản lý hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, công nghệ…”, ông Hoàng Anh Minh nhấn mạnh.
Cũng theo ông Hoàng Anh Minh, chính sự đồng thuận, hỗ trợ đó đã giúp cho Ban biên tập xây dựng được Đặc san theo đúng mong muốn của mình, là tạo dựng một bức tranh toàn cảnh về kinh tế - tài chính số của Việt Nam hiện nay và triển vọng phát triển trong tương lai.
Tại toạ đàm, ông Hoàng Anh Minh gửi lời cảm ơn các nhà lãnh đạo Chính phủ và các bộ ngành, các chuyên gia và doanh nhân đã đóng góp những bài viết chất lượng cho ấn phẩm này; cảm ơn các nhà tài trợ Viettel Money, MB, EVN Finance, FSI và các đối tác đã đồng hành trong việc xuất bản đặc san.
“Ngày hôm nay chúng ta có mặt ở đây để tham dự tọa đàm Tương lai Tài chính số Việt Nam và ra mắt Đặc san Tương lai Tài chính số. Chúng tôi hy vọng những nỗ lực bé nhỏ này sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của lĩnh vực kinh tế - tài chính số trong thời gian tới.
"BBT Tạp chí rất muốn lắng nghe các ý kiến, kiến giải từ các nhà quản lý, chuyên gia, doanh nhân trong lĩnh vực này để cùng làm rõ thêm các vấn đề của thực tiễn và hướng giải quyết trong thời gian tới, đảm bảo cho kinh tế tài chính số nói chung, cho số hóa lĩnh vực tài chính ngân hàng nói riêng, đạt kết quả tốt hơn, bền vững hơn trong tương lai”, Tổng biên tập Tạp chí Đầu tư Tài chính nhấn mạnh.
Theo ông Dương Quốc Anh, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, trên thế giới, fintech có 3 ngạch chính: các ngân hàng số hoá các quy trình nghiệp vụ; các big tech kết hợp và cung cấp dịch vụ cho các ngân hàng, tổ chức hoạt động trong lĩnh vực tài chính; các ngân hàng số.
Mặc dù hiện tại công nghệ tài chính đang phát triển rất mạnh, nhưng cho tới nay, chưa quốc gia nào có thể khẳng định có đủ hệ thống pháp lý về lĩnh vực này. Tại Việt Nam, chủ yếu Ngân hàng Nhà nước đang đi đầu trong lĩnh vực này, dù thị trường mong muốn hơn.
Trong 1 báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, nước ta hiện có khoảng 40 doanh nghiệp fintech có tên tuổi, 72% fintech kết hợp với các ngân hàng để cung cấp dịch vụ, 28% còn lại hoặc tự phát triển các dịch vụ mới, hoặc cạnh tranh với các nhân hàng.
Nói về tốc độ phát triển fintech của Việt Nam, ông Dương Quốc Anh nhận định: “Sự phát triển fintech của Việt Nam rất nhanh, tiềm lực lớn nhưng còn nhiều hạn chế, rủi ro cho các nhà đầu tư”, do quy định pháp lý chưa rõ ràng.
Nói về những khó khăn, ông Dương Quốc Anh cho rằng có 4 khó khăn chính.
Thứ nhất là khó khăn về nguồn nhân lực, khi fintech yêu cầu những nhân lực vừa am hiểu công nghệ thông tin vừa am hiểu tài chính, ngân hàng. Thứ hai là chi phí đầu tư, vận hành vô cùng lớn (10 ngân hàng lớn đầu tư mỗi năm khoảng 15.000 USD).
Thứ ba là khó khăn về pháp lý như quy định về fintech chưa rõ ràng chưa đồng bộ. Một số quy định về thủ tục; vấn đề xác định danh tính khách hàng; chưa có nguồn thông tin đảm bảo về kho dữ liệu; các quy định về hợp đồng điện tử, chữ ký số, tài sản số; các quy định về tố tụng, quyền sở hữu, hình sự cũng chưa rõ ràng. Thứ tư là công tác bảo mật thông tin cho khách hàng là một vấn đề rất đáng ngại.
“Về kiến nghị, tôi chỉ nói về vấn đề pháp lý. Quan trọng nhất là xây dựng 1 khuôn khổ pháp lý. Khi tôi còn là Vụ trưởng, các quy định, thông tư, nghị định cho các tổ chức tham gia vào hệ thống có 3 nguyên tắc: tính chắc chắn về mặt pháp lý; bình đẳng giữa các bên khi tham gia thị trường; tính tương xứng giữa yêu cầu về quản trị rủi ro, ngăn chặn rủi ro giữa các quy định.
“Đối với Việt Nam, tôi nghĩ đến lúc này, các fintech nên ngồi lại với nhau để có tiếng nói chung vì lợi ích chung, có thể giải trình với các cơ quan quản lý và cần các buổi hội thảo có cơ quan quản lý. Tôi nghĩ rằng đã đến lúc chúng ta cần có Hiệp hội Fintech. Chúng tôi đang cố gắng thành lập và hướng tới kết hợp chặt chẽ, tổng hợp tiếng nói của các doanh nghiệp fintech”.
Theo ông Nguyễn Quang Đồng, Viện trưởng Viện nghiên cứu chính sách và phát triển truyền thông (IPS), 5 năm trước, khoảng giữa 2015, Việt Nam đã nói nhiều về fintech. Khi đó, đã có những yêu cầu về khuôn khổ pháp lý, nhưng chúng ta đã đi quá chậm. "Hiện tại chúng ta đang ở giữa một làn sóng công nghệ, về trí tuệ nhân tạo… Chúng ta cần quay lại câu chuyện nên hoàn thiện khuôn khổ pháp lý như thế nào", ông nói.
Ông Nguyễn Quang Đồng cho rằng thiệt hại tổng thể cho nền kinh tế số Việt Nam là do thiếu khuôn khổ pháp lý, nên thay vì phát triển được 10 phần, đi 10 bước, thì chúng ta chỉ có thể đi 5 bước.
"Tôi muốn đi sâu vào phần dữ liệu. Mặc dù khoảng 3 năm trước, Chính phủ đã ban hành văn bản về dữ liệu cá nhân, nhưng quay trở lại hiện tại, khi áp dụng công nghệ vào dữ liệu cá nhân, vẫn tồn tại 2 vấn đề. Thứ nhất là khả năng ứng dụng công nghệ cho cá nhân. Thứ hai là rủi ro về bảo mật dữ liệu cá nhân cho người dùng. Với rủi ro lớn như vậy, liệu các doanh nghiệp trong lĩnh vực này có thể tạo ra những phương án gì để thu hẹp rủi ro, thay vì cạnh tranh. Do đó, dữ liệu cá nhân là yếu tố rất quan trọng", ông Nguyễn Quang Đồng bình luận.
Cũng theo ông Đồng, từ 1/7/2023, nghị định về dữ liệu cá nhân có hiệu lực, trao quyền cho người dùng, đồng thời đưa ra các nghĩa vụ tương ứng cho các doanh nghiệp. Chúng ta cần hiểu nghĩa vụ của các công ty là gì để đảm bảo an toàn dữ liệu cho người dùng.
Nói về các giải pháp ứng phó với các rủi ro về vấn đề pháp lý, ông Nguyễn Quang Đồng đề nghị các doanh nghiệp trong ngành “nên ưu tiên cho việc quản lý về mặt pháp lý. Chúng ta hay tập trung vào sản phẩm mà bỏ qua những rủi ro về vấn đè khác như pháp luật”.
Ông Nguyễn Quang Đồng đề nghị Hiệp hội Tư vấn Tài chính Việt Nam (VFCA) nên có bộ phận pháp lý để tư vấn cho các doanh nghiệp. “Về dài hạn, Hiệp hội nên đẩy mạnh tư vấn chính sách, còn doanh nghiệp nên kết hợp với hiệp hội để giảm thiểu rủi ro về pháp lý. Môi trường vĩ mô đang bất ổn định, nên chúng ta cần chủ động để giảm thiểu rủi ro cho chính mình”.
TS Lê Duy Bình, Giám đốc Economica Vietnam, khẳng định việc tham gia vào các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (FTA) là cơ hội cho nền kinh tế bắt nhịp với chuyển đổi số.
Từ quá trình nghiên cứu các FTA thế hệ mới, ông Lê Duy Bình khẳng định, các FTA thế hệ mới đã thiết kế những quy định hoàn toàn khác, với tiêu chuẩn cao hơn và khó đáp ứng hơn so với các FTA truyền thống.
Những quy định đó, theo ông Lê Duy Bình không chỉ tác động tới hệ thống các ngân hàng, các doanh nghiệp fintech, các công ty tài chính mà còn tác động tới hoạt động kinh doanh của toàn bộ doanh nghiệp.
Từ thực tế đó, theo ông Lê Duy Bình, cần những chính sách mới mang tính chất định hướng, hướng dẫn thêm cho doanh nghiệp trong việc thích nghi với các quy định khó này.
Riêng đối với hiệp định thương mại tự do (EVFTA) và hiệp định bảo hộ đầu tư (EVIPA) giữa Việt Nam và EU, ông Bình đánh giá, hai hiệp định này sẽ có tác động rất lớn tới quá trình chuyển đổi số của nền kinh tế với 8 tác động.
Tác động đầu tiên là việc mở rộng đầu tư. Thực tế cho thấy, đầu tư thường sẽ nối gót thương mại. Sau những kết quả tích cực trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam và châu Âu nhờ EVFTA, cho tới nay, hoạt động đầu tư của EU vào Việt Nam đã bắt đầu có những tín hiệu tăng trưởng tích cực. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, lũy kế đến cuối năm 2022, đã có 25/27 nước thuộc EU đầu tư vào Việt Nam với gần 2.400 dự án, tổng vốn đăng ký đạt hơn 28 tỷ USD, chiếm khoảng 6,5% tổng vốn đăng ký tại Việt Nam. Đầu tư của EU có xu thế tập trung vào các ngành công nghệ cao – những ngành có trình độ và hàm lượng chuyển đổi số cao, ví dụ như sản xuất công nghệ cao, chăm sóc sức khỏe, năng lượng sạch và tái tạo, trí tuệ nhân tạo, nghiên cứu và phát triển, dịch vụ tài chính.
Tác động thứ hai, theo ông Lê Duy Bình, là sẽ thúc đẩy quá trình số hoá của doanh nghiệp Việt Nam thông qua quan hệ đầu tư với các nước thành viên của EVFTA. Doanh nghiệp FDI từ EU thường có tỷ lệ nội địa hoá cao hơn so với mức trung bình và có tính kết nối chặt chẽ hơn với các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước, từ đó thúc đẩy mạnh mẽ hơn quá trình chuyển đổi số của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước khi làm thầu phụ hay trở thành đối tác kinh doanh của các doanh nghiệp FDI đến từ châu Âu. Thực tiễn cho thấy, các doanh nghiệp FDI của châu Âu như Ericsson, ABB, Bosch, Paggio, Zuellig Pharma, BNP Paribas... đang đóng góp đáng kể vào việc chuyển giao kiến thức, đổi mới, phát triển công nghệ và số hóa tại Việt Nam.
Tác động thứ ba là thúc đẩy quá trình phát triển bền vững. FTA thế hệ mới, trong đó có EVFTA, đã dành riêng các chương về phát triển bền vững. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp đẩy nhanh quá trình sản xuất xanh, sản xuất bền vững để đáp ứng với các tiêu chuẩn cao mà các hiệp định này mang lại.
Tác động thứ tư là thúc đẩy quá trình giao dịch giữa doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ với châu Âu bằng hình thức trực tiếp hoặc giao dịch qua không gian số.
Tác động thứ năm là công tác bảo vệ sở hữu trí tuệ, bảo vệ dữ liệu cá nhân được chú trọng. Ví dụ, các nước trong CPTPP rất chú trọng quyền sở hữu trí tuệ, có thể tác động lớn, tốt hơn với quá trình bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam.
Tác động thứ sáu là thúc đẩy khu vực công chuyển mình về năng lực số. EVFTA, ngay từ khi được đàm phán, đã thúc đẩy nhiều cải cách pháp lý, thúc đẩy hiện đại hóa pháp luật ở Việt Nam và tăng cường hiệu lực thực thi.
"Các cải cách về chính sách và pháp luật cùng với các yếu tố khác nữa, sẽ góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi số ở Việt Nam trong nhiều năm và thập kỷ tới. Khu vực công, do vậy, đóng vai trò quan trọng trong các nỗ lực nhằm hiện thực hoá các cơ hội về chuyển đổi số từ EVFTA", ông Lê Duy Bình nói.
Tác động thứ bảy là EVFTA thúc đẩy quản trị công theo hướng hiện đại ở Việt Nam, đặc biệt thông qua phát huy vai trò của công nghệ thông qua chuyển đổi số và các dịch vụ chính phủ điện tử, số hóa dịch vụ công, đặc biệt là dịch vụ cho doanh nghiệp, nhà đầu tư và trong các lĩnh vực liên quan đến thương mại, đầu tư, hải quan, thuế, giao nhận và các lĩnh vực khác.
Cuối cùng, EVFTA thế hệ mới thúc đẩy cải cách môi trường kinh doanh, quy định pháp luật về môi trường số tại Việt Nam.
Theo ông Tuấn Nguyễn, Chủ tịch eCap Holding, thị trường tài chính tiêu dùng đang có tiềm năng rất lớn. Theo ước tính của ông Tuấn Nguyễn, thị trường tài chính chính thống mới chiếm khoảng 25% tổng thị trường, còn lại là các hoạt động tài chính phi chính thống. Cả nước có khoảng 25.000 tiệm cầm đồ truyền thống, trong khi F88 là chuỗi cầm đồ lớn nhất cũng chỉ mới có hơn 800 điểm giao dịch.
Dẫn chứng cho vấn đề này, ông Tuấn Nguyễn cho biết, các đối tượng có thu nhập thấp như công nhân, khi việc nào đó đột xuất thường đi vay bằng kênh tài chính tín dụng bên ngoài như tín dụng đen.
“Tôi được biết, tại nhiều doanh nghiệp, công nhân sẵn sàng bỏ việc nếu như không được tạm ứng lương để lo cho cuộc sống. Nhưng tại nhiều nơi, doanh nghiệp tương đối khó khăn trong việc đáp ứng dòng tiền này. Đây chính là cơ hội cho doanh nghiệp fintech hoàn toàn có thể nắm bắt”, ông Tuấn Nguyễn nói.
Để các công ty fintech có thể tiếp tục phát triển trong thời gian tới, ông Tuấn Nguyễn cho rằng, cần cái nhìn cởi mở hơn đối với doanh nghiệp fintech. “Các ngân hàng hoàn toàn có thể coi các doanh nghiệp fintech là cánh tay nối dài của mình trong việc phục vụ thị trường tài chính tiêu dùng".
Vấn đề tiền số, ông Tuấn Nguyễn nhấn mạnh tiền số tại Việt Nam hoạt động mạnh nhưng không xin phép. “Trong khi đó, doanh nghiệp chúng tôi rất thiệt thòi khi chúng tôi muốn hoạt động ví điện tử thì phải xin giấy phép mất tận 5 năm. Do đó, chúng tôi cần hành lang pháp lý rõ ràng và đầy đủ để doanh nghiệp yên tâm đầu tư”, ông Tuấn Nguyễn chia sẻ.
Phản hồi ý kiến của ông Tuấn Nguyễn về vấn đề tiền số, ông Dương Quốc Anh nói rằng, về tiền số hiện nay có 2 loại, một loại của ngân hàng trung ương và một loại của công ty fintech.
“Thủ tướng đã giao Ngân hàng Nhà nước tiếp tục nghiên cứu về vấn đề này”, ông Dương Quốc Anh thông tin.
Về vấn đề tiền số của các công ty fintech, ông Dương Quốc Anh cho biết quan điểm của ngân hàng trung ương là không công nhận loại tiền này.
"Khi làm bất kỳ điều gì, chúng ta thường tập trung vào “Làm thế nào” (How), “Làm cái gì” (What) mà quên mất “Tại sao lại làm” (Why). Chúng ta hướng tới fintech, kinh tế số, nhưng bản chất sự thay đổi này cũng là một cuộc cách mạng kinh tế.
Việt Nam đang có 2 chiến lược quan trọng về chuyển đối số, là Chương trình chuyển đổi số quốc gia và Chiến lược tài chính toàn diện. Nhìn chung, trong các mục tiêu về tài chính toàn diện, chúng ta đang tập trung vào số lượng thay vì chất lượng. Ngoài ra, chúng ta cần nhìn lại thị trường tài chính truyền thống đang như thế nào. Ví dụ ngay trong năm 2022, tình trạng tín dụng tràn lan, đầu tư tràn lan, tư vấn bảo hiểm đánh tráo khái niệm, ngay cả người đã về hưu cũng bị lôi vào các câu chuyện lãi suất hay đầu tư.
Quay trở lại môi trường fintech, mục tiêu ban đầu được xác định là hướng tới xã hội ổn định hơn, nhưng do dịch vụ chưa ổn định lại đem tới sự bất ổn cho người dân. Đó là do chúng ta tập trung vào số lượng hơn chất lượng, và các dịch vụ còn được cung cấp riêng lẻ thay vì tạo thành bức tranh toàn cảnh cho người tiêu dùng.
Với các quốc gia khác trên thế giới, họ phát triển kinh tế tài chính không chỉ tập trung vào sản phẩm, dịch vụ, cho người dân con cá, mà thay vào đó sẽ cho người dân cần câu. Cần câu ở đây là tri thức tài chính. Còn ở Việt Nam thì gần như chưa có doanh nghiệp nào cung cấp cho người dân các kiến thức đúng đắn và cần thiết về tài chính số.
Để giải quyết vấn đề này, chúng ta cần cho người dân lý do sử dụng dịch vụ tài chính, đồng thời cung cấp cách sử dụng đúng, đủ các dịch vụ tài chính. Chúng ta đang để người dân tự hoạch định tương lai tài chính mà k có hướng dẫn từ doanh nghiệp và cơ quan quản lý.
Đồng tình với ý kiến này, ông Dương Quốc Anh cho rằng cần có sự giáo dục tài chính, nhất là khi các quốc gia khác hầu hết đều có chương trình về vấn đề này.
Chia sẻ thêm tại buổi tọa đàm, ông Cao Hoàng Anh, Phó Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư thương mại và Phát triển công nghệ FSI, nhận định: “Các ngân hàng, tổ chức tài chính hiện nay dễ dàng chuyển đổi số hơn các doanh nghiệp khác, bởi họ đã có kho dữ liệu”.
Dù vậy, ông Cao Hoàng Anh cho biết hiện nay thể chế chính sách liên quan đến kết nối dữ liệu đang có nhiều vướng mắc. Theo đại diện FSI, để quá trình chuyển đổi số được diễn ra đồng bộ, việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý là rất quan trọng.
Kết thúc phần toạ đàm, TS Lê Minh Nghĩa, Phó chủ tịch Hiệp hội Tư vấn Tài chính Việt Nam, đã gửi lời cảm ơn tới các lãnh đạo, các chuyên gia, các doanh nghiệp, tham gia toạ đàm cũng như có bài viết, bài phỏng vấn trên Đặc san Tương lai Tài chính số.
“Các quan điểm, các ý kiến của lãnh đạo, chuyên gia, các ngành, cũng đã được chúng tôi cập nhật đầy đủ trong đặc san. Đây là ấn phẩm toàn diện về kinh tế và tài chính số”, ông Lê Minh Nghĩa thông tin thêm.
Ở góc độ quản lý, ông Lê Minh Nghĩa khẳng định Hiệp hội Tư vấn Tài chính Việt Nam có trách nhiệm đóng góp vào quá trình phát triển của kinh tế, tài chính số tại Việt Nam.
Về quá trình phát triển của kinh tế, tài chính số hiện nay, ông Nghĩa nói rằng vấn đề khó hiện nay là khoảng cách giữa hoạch định và triển khai chính sách vẫn còn khoảng cách.
“Chúng ta đang chưa có hành lang pháp lý đầy đủ, như anh Tuấn Nguyễn nói, chúng ta cần đường đi. Đây là vấn đề mà các nhà hoạch định chính sách cần lắng nghe để tiếp tục phát triển”, ông Lê Minh Nghĩa nói.
Về giải pháp cho vấn đề phát triển kinh tế, tài chính số tại Việt Nam, ông Lê Minh Nghĩa đề xuất cần phải đẩy nhanh quá trình hoàn thiện thể chế, tạo hành lang pháp lý thông thoáng để doanh nghiệp yên tâm tham gia đầu tư vào lĩnh vực này.
Cũng trong khuôn khổ sự kiện, Tạp chí Đầu tư Tài chính đã chính thức ra mắt Đặc san Tương lai tài chính số. Với 300 trang, Đặc san hướng đến nhận diện rõ thực trạng về kinh tế số Việt Nam, những cơ hội, thách thức cũng như giải pháp để kinh tế số trở thành tương lai của nền kinh tế Việt Nam. Bên cạnh đó, giới thiệu các góc nhìn về quá trình chuyển đổi số của các doanh nghiệp cũng như các ngành kinh tế, trong đó, không thể không nhắc đến thương mại điện tử - một thành phần quan trọng mang tính dẫn dắt trong nền kinh tế số.
Đặc biệt, thông qua ấn phẩm này, Tạp chí Đầu tư Tài chính – VietnamFinance kỳ vọng đem đến cho bạn đọc góc nhìn tổng quan về tài chính số, chỉ ra các công nghệ quyết định tương lai tài chính số, những điểm mấu chốt cũng như những mâu thuẫn khi phát triển tài chính số, trong đó có những mâu thuẫn phát sinh giữa con người và máy móc. Ấn phẩm cũng dành loạt bài chuyên sâu về chủ đề số hóa ngân hàng và phát triển ngân hàng số, chỉ ra những cơ hội và thách thức điển hình.
(VNF) - Dự án nhà ở xã hội NO1 thộc Khu đô thị mới Hạ Đình, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân và xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.