Một số đặc điểm của báo chí Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945
Bình An -
21/06/2025 07:30 (GMT+7)
(VNF) - Trong thời Pháp thuộc, sau khi hoàn tất việc chiếm đóng Đông Dương, người Pháp bắt đầu các hoạt động kinh tế, thương mại trên quy mô lớn. Quá trình này, vốn lâu nay vẫn được gọi là các “cuộc khai thác thuộc địa”, đã đưa tới những thay đổi hết sức quan trọng trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của Việt Nam. Và trong dòng chảy đó, tại Việt Nam cũng đã hình thành một nền báo chí thực sự.
Có thể thấy rằng song song với quá trình chiếm đóng, cai trị và khai thác thuộc địa, người Pháp cũng đồng thời đã xây dựng thiết chế căn bản nhất cho xã hội Việt Nam thời đó, bao gồm một nền chính trị cai trị với đầy đủ vai trò và chức năng của một nhà nước; một nền kinh tế “đa thành phần” với sự xuất hiện của các ngành công nghiệp, thương mại, dịch vụ… bên cạnh nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu trước đó; một nền văn hóa mới trong đó lần đầu tiên Việt Nam có một hệ thống giáo dục khá hiện đại, hoạt động văn chương nghệ thuật phát triển.
Báo chí Việt Nam đã có sự phát triển rất đáng chú ý trong những năm đầu thế kỷ và đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống kinh tế xã hội Việt Nam trong giai đoạn này. Báo chí vừa phản ánh đời sống xã hội, vừa là một phần hữu cơ trong xã hội đó. Và chính sự phát triển của báo chí đã vô hình trở thành một quá trình “ghi biên bản” hầu hết các diễn biến quan trọng nhất của chính trị, quân sự, văn hóa, kinh tế… của Việt Nam trong giai đoạn này. Đây chính là nguồn sử liệu to lớn để ngành khoa học lịch sử khai thác.
Khái quát về kinh tế Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945
Cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp đã lên kế hoạch và chuẩn bị cho công cuộc khai thác thuộc địa ở Đông Dương, trong đó có Việt Nam. Do hoàn cảnh quốc tế và tình hình ở Đông Dương trong thời gian từ 1897 đến 1945 có nhiều biến động nên đã làm cho công cuộc khai thác thuộc địa của Pháp ở Đông Dương bị gián đoạn. Vì thế, công cuộc khai thác này của thực dân Pháp được chia làm hai giai đoạn: cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất bắt đầu vào năm 1897, kết thúc năm 1914 và cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai bắt đầu vào năm 1919, kết thúc năm 1929. Cho dù phân kỳ thành hai giai đoạn, có thể thấy đặc điểm chung của quá trình này là chính quyền cai trị tạo ra các điều kiện thuận lợi nhất để giới tư bản Pháp khai thác các lợi ích từ thuộc địa Đông Dương mang về nước Pháp cũng như mua bán, trao đổi trên phạm vi toàn cầu. Các cuộc khai thác thuộc địa này đã kéo theo việc tư sản Pháp đã “đầu tư” rất lớn vào Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng. Mặt khác, hòa chung trong quá trình đó, bắt đầu hình thành nên một lớp tư sản dân tộc người Việt biết tranh thủ cơ hội để phát triển sản xuất kinh doanh.
Từ năm 1930, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng giai đoạn 1929 – 1933 các nước chủ nghĩa tư bản nói chung và Pháp nói riêng thì đều chịu ảnh hưởng nặng nề từ cuộc khủng hoảng, trong thời gian này Việt Nam đang là thuộc địa của Pháp, do vậy cũng không thể thoát khỏi những ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng, nước nhà gặp khung hoảng vì vậy mà Pháp đẩy mạnh việc bóc lột ở các nước thuộc địa của mình. Tuy nhiên, không thể phủ nhận những thành tựu mà công cuộc khai thác thuộc địa đã đem lại cho Đông Dương nói chung, cho Việt Nam nói riêng. Vào năm 1945, Việt Nam đã có được những nền tảng kinh tế hết sức căn bản của một quốc gia dù đang phụ thuộc. Một hệ thống các công trình hạ tầng hết sức quan trọng đã hình thành, gồm đường bộ, đường sắt, bến cảng, sân bay trên toàn quốc mà nhiều công trình trong số đó vẫn tiếp tục được khai thác cho đến ngày nay. Chẳng hạn, đến năm 1936, người Pháp xây dựng xong đường sắt Bắc Nam với tổng chiều dài 2.600 km. Từ 1900 đến 1935, Pháp đã sử dụng 145 triệu franc để xây dựng đường xe lửa và 45 triệu franc để mở mang đường sá. Ngoài ra họ còn thiết lập hệ thống điện tín, hệ thống cảng biển, cảng sông với các cảng nổi tiếng, có quy mô lớn trong khu vực thời bấy giờ như Cảng Sài Gòn, Cảng Hải Phòng…
Báo chí Việt Nam giai đoạn 1930-1945
Dưới thời phong kiến Triều Nguyễn và trước đó, ở Việt Nam chưa có báo chí, mặc dầu Triều đình Huế vẫn đặt mua sách báo bằng Hán ngữ và Pháp ngữ từ Quảng Châu và Hong Kong về tham khảo. Khi người Pháp xâm chiếm Nam Kỳ, báo chí phát hành tại Việt Nam mới ra đời, trước tiên là báo Pháp ngữ vào năm 1861, rồi sau đó báo được xuất bản bằng chữ quốc ngữ từ năm 1865.
Năm 1911, Albert Sarraut sang làm toàn quyền Đông Dương. Albert Sarraut từng là một nhà báo, làm biên tập viên thường trực tờ La Dépêche du Midi ở Toulouse, do đó muốn sử dụng báo chí cho mục đích chính trị. Ông chủ trương nới lỏng báo chí rõ rệt từ năm 1913, mong dùng báo chí làm công cụ phản tuyên truyền để đối phó với phong trào cách mạng trong nước và sự bành trướng ảnh hưởng của Trung Hoa và Đức sang Việt Nam thời đó.
Báo chí được phép xuất bản, nhưng tất nhiên phải chịu sự kiểm duyệt đáng kể của chính quyền. Phong trào người bản xứ đòi quyền tự do báo chí diễn ra liên tục, bền bỉ từ năm 1898 đến 1936. Ngày 30/8/1938, thực dân Pháp phải ra luật cho áp dụng chế độ tự do báo chí ở Nam Kỳ, nhưng rồi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ tháng 9/1939, chính quyền tiếp tục thực thi chính sách bóp nghẹt tự do báo chí và xuất bản cho đến năm 1945. Tuy nhiên, xét trong cả giai đoạn thuộc Pháp, đặc biệt là trong giai đoạn 1930 – 1945, báo chí Việt Nam vẫn có những sự “tự do” nhất định rất đáng lưu ý. Chẳng hạn, tư nhân được quyền làm chủ cơ quan báo chí, theo đó các cá nhân có tiềm lực tài chính, có kiến thức văn chương, báo chí có thể tự thành lập tờ báo và xuất bản. Mặc dù báo chí tư nhân chỉ được đăng những tin chính quyền cho phép qua chế độ kiểm duyệt, việc các tờ báo tồn tại được cho thấy sự cởi mở nhất định trong chính sách quản lý của chính quyền cai trị.
Trong giai đoạn 1930 – 1945, kinh tế Pháp và Đông Dương dù chịu tác động của cuộc khủng hoảng toàn cầu nhưng vẫn có sự phát triển nhất định. Giới tư sản Việt Nam bắt đầu hình thành và phát triển, đồng thời đội ngũ trí thức tân học ngày càng đông đảo. Nhiều loại hình kinh tế, văn hóa, nghệ thuật phát triển mạnh hoặc mới xuất hiện như công nghiệp, điện ảnh, kịch, thể dục thể thao, tân nhạc, thơ mới, tiểu thuyết, truyện ngắn… Từ đó, xã hội hình thành nhiều tổ chức, đảng phái chính trị, tổ chức kinh tế, nghiệp đoàn, trường phái văn chương, nghệ thuật… Mỗi tổ chức, lĩnh vực đều muốn thể hiện tiếng nói của mình qua báo chí để thỏa mãn và hoàn thành mục tiêu trong xã hội. Sự phát triển kinh tế làm các đô thị tập trung đông dân cư hơn, góp phần làm tăng đối tượng độc giả báo chí nhiều hơn trước. Đây chính là những điều kiện quan trọng để báo chí Việt Nam có sự phát triển khá mạnh mẽ trong giai đoạn này.
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918), điều kiện ra báo dễ dàng hơn cho người Việt, mới có nhiều chủ báo người Việt như Sương Nguyệt Anh, Nguyễn Hữu Thu, Bạch Thái Bưởi, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, Nguyễn Kim Đính, Bùi Xuân Học, Diệp Văn Kỳ, Hoàng Tích Chu… Nhiều loại báo đặc biệt chuyên nghiên cứu về một vấn đề, dành riêng cho một giới độc giả cũng xuất hiện như báo chính trị, phụ nữ, thiếu nhi, tôn giáo, kinh tế, sư phạm, văn chương…
Nhờ chính sách tương đối cởi mở của chính quyền cai trị, báo chí xuất bản công khai, hợp pháp tăng lên nhanh chóng. Kể cả báo, tạp chí, kỷ yếu, niên san, năm 1932 có 318 tờ. Năm 1933 có 357 tờ. Quý I/1936 có 411 tờ, trong đó có 99 tờ báo, 166 tờ kỷ yếu và tạp chí, 146 tạp chí xuất bản hàng năm. Riêng về báo, năm 1932 có 92 tờ, trong đó có 48 báo quốc ngữ và 44 báo Pháp ngữ. Năm 1935 có 102 tờ, trong đó có 44 báo quốc ngữ và 58 báo Pháp ngữ. Đáng chú ý là nhiều tờ báo xuất hiện một thời gian ngắn rồi đóng cửa. Chỉ riêng năm 1936, cả Đông Dương có 70 tờ báo đình bản và 96 tờ báo mới ra đời. Hiện tượng này cho thấy sự cạnh tranh cũng như quy luật đào thải của ngành này.
Một điểm đáng chú ý là báo chí cũng tập hợp trong các “tổ chức nghề nghiệp”. Năm 1918, nhà văn Nguyễn Chánh Sắt và chủ nhà in Imprimerie de l’Union là Nguyễn Văn Của cùng một số bạn bè thân hữu đã thành lập Nam Kỳ Nhật Báo Ái Hữu Hội tại Sài Gòn. Trước năm 1936, tại Nam Kỳ cũng đã thành lập Hội Lương Hữu Báo Chí do Nquyễn Văn Sâm làm chủ tịch, tập hợp hàng trăm người làm báo khắp Đông Dương, mà đông nhất tại Sài Gòn.
Năm 1937, Hội nghị báo giới toàn xứ Trung Kỳ khai mạc tại Đông Pháp lữ quán, số 7 Đông Ba, Huế, có 70 đại biểu tham dự, trong đó có 37 ký giả đại diện cho báo giới Trung Kỳ. Tại hội nghị này đã thành lập Hội Ái Hữu Báo Giới Trung Kỳ, ra tuyên bố đòi chính quyền Pháp cho tự do báo chí tại xứ bảo hộ Trung Kỳ. Cũng trong năm 1937, Hội nghị báo giới Bắc Kỳ tổ chức tại báo quán Tương Lai, 16B Đường Thành, Hà Nội, gồm 18 đại biểu 18 tờ báo tại Hà Nội.
Đến năm 1938, giới báo chí đã tổ chức Hội nghị Báo giới Đông Dương tại Hotel des Nations, Sài Gòn, cử đại biểu đến trao bản kiến nghị cho Toàn quyền Đông Dương. Ngày 30/8/1938, toàn quyền Joseph Jules Brévié thay mặt Chính phủ Pháp ra nghị định công bố Luật Tự do báo chí, nhưng chỉ áp dụng ở thuộc địa Nam Kỳ. Nhờ đó, trong hai năm 1938-39, chỉ riêng Sài Gòn đã có thêm hơn 60 tờ báo ra đời. Làng báo có thêm các tờ báo chính trị đối lập, thậm chí một số báo chí đã ra đời mà không xin phép chính quyền. Một số tờ báo thuộc dòng báo chí cách mạng cũng đã ra đời trong giai đoạn này. Một trong những tờ tiêu biểu là Báo Thanh Niên xuất bản vào ngày 21/6/1925, do Nguyễn Ái Quốc sáng lập, được coi là mốc mở đầu của dòng báo chí cách mạng Việt Nam.
Một số đặc điểm của báo chí Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945
Đáng chú ý là trong giai đoạn này, nhờ sự bùng nổ về số lượng báo chí, sự cạnh tranh trong làng báo trở nên gay gắt. Do đó, để tồn tại, các tòa soạn đã phải nỗ lực đa dạng hóa thông tin và hình thức chuyển tải. Khác với giai đoạn trước đó, trong giai đoạn này báo chí bắt đầu trở nên nhẹ nhàng, gần gũi hơn với bạn đọc.
Năm 1931, ông Nguyễn Đình Thâu cho ra đời tờ báo Duy Tân. Năm 1932, Nguyễn Tường Tam cho ra đời tờ Phong Hóa theo hướng tờ báo trào phúng tế nhị, nhẹ nhàng và sâu sắc. Theo ông Nguyễn Tường Tam, đang là một trụ cột của nhóm Tự lực văn đoàn, mục tiêu của báo là “không chỉ để mua vui cho người đọc mà nhằm một chủ trương cao xa hơn, đó là chủ trương cùng cười cợt để sửa đổi phong hóa, trước vui thích sau ích lợi, lấy thiết thực làm căn bản, và lấy khôi hài trào phúng làm phương pháp”. Tờ Phong Hóa nhờ đó đã trở thành tờ báo có số in nhiều nhất so với các báo ở trong nước, nhờ đó mà ảnh hưởng của nó rất sâu rộng.
Năm 1935, nhà văn Nguyễn Tường Tam cho ra đời tờ báo mới mang tên “Ngày Nay”, mang ít tính chất trào phúng hơn tờ Phong Hóa, và chú trọng nhiều vào việc diễn tả cho mọi người dân thấy rõ sinh hoạt xã hội trong buổi bấy giờ về mọi phương diện, cả hình thức lẫn tinh thần. Nguyễn Tường Tam viết: “Chúng tôi muốn cho tờ Ngày Nay thành một tờ báo vừa vui vừa có ích, ai cũng cần đọc, ai cũng muốn đọc, tờ báo lan rộng, nhiều người xem, sức mạnh của tờ báo là ở đó. Dựa vào sức mạnh ấy dần dần sẽ mưu tính những công cuộc về xã hội, những việc cải cách khẩn yếu mà các bạn và chúng tôi lúc nào cũng tha thiết”.
Với nội dung bổ ích, hay lạ, tờ Ngày Nay là tờ báo báo đắt nhất trong nước, cũng một phần nhờ in đẹp, hình ảnh nhiều. Bài vở phong phú với đầy đủ các mục điều tra, phóng sự, giáo dục, tìm hiều, văn chương. Tuy nhiên, do khó khăn tài chính, tờ báo này từng phải tự đình bản khoảng 1 năm trước khi xuất bản trở lại và rồi cuối cùng đến năm 1940 thì bị nhà cầm quyền rút giấy phép vì lý do chính trị.
Trung Bắc Chủ Nhật cũng là một tờ báo đáng chú ý của giai đoạn này khi có nhiều tin tức, tranh ảnh thời sự, những bài nghiên cứu công phu, và những bài viết liên quan đến một chủ đề do tờ báo chọn lựa. Điểm đặc biệt nữa là tờ báo này biết dung hòa nền văn hóa Đông và Tây bằng cách giới thiệu các tư tưởng mới của Tây Phương song song với các bài giới thiệu những nét đặc điểm của nền văn minh Trung Quốc. Tờ Trung Bắc Chủ Nhật được ông Nguyễn Doãn Vượng xây dựng với sự cộng tác của nhà văn Vũ Bằng và nhà văn Đào Trinh Nhất.
Tại miền Trung, Kim Lai Tạp Chí do ông Viễn Đệ làm Giám đốc ra mắt vào 1931, và tờ Sông Hương ra mắt vào 1936 do nhà báo lão thành Phan Khôi làm chủ bút. Tờ Sông Hương, nhờ tên tuổi của Phan Khôi cùng với phần văn chương của Vũ Trọng Phụng, đã thu hút được một số độc giả đáng kể tại địa phương, nhất là sau khi Vũ Trọng Phụng cho đăng từng phần cuốn tiểu thuyết “Làm Đĩ”.
Đó là một số tờ báo tiêu biểu và khá nổi bật trong giai đoạn này. Hầu hết những tờ báo này đã cho thấy chiều hướng của báo chí hầu hết là nhắm vào cuộc đấu tranh xây dựng xã hội, ít còn chú trọng tới việc hô hào đấu tranh giành độc lập như trong thời gian trước đây. Ngoài những tờ kể trên cũng còn một số báo chí khác đóng góp vào sinh hoạt làng báo trong thời kỳ này nhưng hầu hết đều có chung một mục tiêu là nhắm vào xã hội hơn là chính trị.
Nhìn chung, báo chí Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 đã có sự phát triển theo hướng ngày càng phong phú, đa dạng và hoàn toàn có thể khẳng định rằng đã có một nền báo chí thực sự hình thành. Ngày nay, rất nhiều tờ báo vẫn còn được lưu giữ nguyên bản trong các thư viện, kho lưu trữ và đó là một nguồn dữ liệu lịch sử vô cùng phong phú, sinh động, rất hữu ích cho công tác nghiên cứu.
Từ đầu thế kỷ 20, song hành với quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, nhu cầu phổ biến, phổ cập các kiến thức kinh tế trong xã hội cũng hình thành và báo chí, xuất bản nói chung đã đóng vai trò rất quan trọng trong vấn đề này. Một mặt, báo chí góp phần chuyển tải các nội dung kinh tế đến công chúng, nhưng đồng thời chính các báo chí cũng biết tự “làm kinh tế” để tồn tại và phát triển.
Ở khía cạnh thứ nhất, từ năm 1904, cuốn Văn Minh Tân Học Sách đã ra đời như là một “học thuyết phát triển” cho Việt Nam trong giai đoạn này. Trong “học thuyết” được giới thiệu là “chủ nghĩa mở trí khôn cho nhân dân” này, nhiều nội dung về kinh tế đã được đề cập một cách khá chi tiết, chẳng hạn trong 6 “nhóm giải pháp” được đưa ra trong cuốn sách này, nhóm giải pháp thứ 5 là “Chấn hưng công nghệ” với nội hàm hoàn toàn về vấn đề cải cách kinh tế. Thú vị hơn nhóm giải pháp thứ 6 là “Mở tòa báo”, cho thấy ngay ở thời điểm đó, những nhân sỹ trí thức Việt Nam đã nhận thức được tầm quan trọng của báo chí đối với sự phát triển. Sách viết:
“Thiết tưởng ở kinh đô ta cũng nên đặt một tòa báo, lựa lấy một vị đại thần làm chủ, lựa một số thân sĩ sung vào; nửa viết bằng chữ nước ta (quốc ngữ), nửa viết bằng chữ Hán. Bao nhiêu phép tốt, ý hay, nghề lạ, ngón khéo ở Âu, Mỹ cùng là những việc xưa nay ở nước ta, hoặc những lời và việc tìm được ở trong sách mà đáng nêu ra làm kiểu mẫu, hoặc những bài thiết thực về thời sự góp nhặt được trong sách luận bài thi, hoặc những người đặc biệt trong đám nhân tài, hoặc có kỹ thuật mới có ích lợi cho nước nhà do giới công nghệ mới tìm ra, thì đều cho đăng lên báo để cho mọi người cùng biết”.
Lịch sử báo chí ghi nhận tờ Nông Cổ Mín Đàm là tờ báo chuyên sâu về kinh tế đầu tiên của Việt Nam. là tờ báo Quốc ngữ viết về kinh tế đầu tiên của Việt Nam, xuất bản lần đầu vào ngày 1/8/1901, theo một nghị định của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer ban hành tại Sài Gòn ngày 14/2/1901. Ông Lương Khắc Ninh là chủ bút đầu tiên của tờ Nông Cổ Mín Đàm năm 1901. Thông qua mục Thương cổ luận trên Nông cổ mín đàm, Lương Khắc Ninh chủ trương cổ động mạnh mẽ cho việc phát triển nghề nông và kêu gọi thành lập những công ty thương nghiệp để thoát ra khỏi sự bóc lột trên thương trường của người Hoa kiều; đồng thời phân tích, mổ xẻ những thói hư tật xấu của người Việt, cả trong tư duy lẫn trong hành xử, không chỉ riêng trong lĩnh vực thương nghiệp, coi đó là những lực cản hữu hình và vô hình đã và đang ngăn trở sự phát triển chung. Cho dù chỉ tồn tại được 20 năm, song Nông Cổ Mín Đàm là một điểm nhấn thú vị trong lịch sử báo chí và báo chí kinh tế của Việt Nam.
Trong giai đoạn 1930 – 1945, tiếp nối “tinh thần” của Nông Cổ Mín Đàm, đã có nhiều báo chí chuyên biệt về kinh tế xuất hiện như Kinh tế Đông Dương, Kinh tế Tân văn, Công Thương báo, Đông Dương Đại Pháp Công nghiệp… Nội dung kinh tế cũng xuất hiện trên các báo chí hàng đầu của Việt Nam trong giai đoạn này.
Ở khía cạnh thứ hai, để tồn tại, các tờ báo đã biết làm “kinh tế báo chí” để tồn tại. Thứ nhất là cố gắng tạo ra nội dung hay để bán được báo, mà một trong những giải pháp quan trọng là thu hút được các “cây viết” đang nổi tiếng. Một giai thoại văn học vẫn được nhắc lại là ông Tế Xuyên, chủ bút tờ Dân Báo, từng trả cho nhà thơ Nguyễn Bính khoản nhuận bút trị giá một cây vàng cho bài thơ Sao chẳng về đây. Trước đó, tờ báo này đã quảng cáo là trong số Tết năm đó sẽ có sự xuất hiện của Nguyễn Bính.
Báo chí thời kỳ này là đã đăng tải rất nhiều quảng cáo hàng hóa, dịch vụ trên khắp ba miền. Điều này cho thấy ở Việt Nam khi đó, một “nền kinh tế hàng hóa” đã được hình thành. Đầu những năm 1920, Hiệp hội Nông Công Thương Bắc kỳ đã cho xuất bản báo "Thực Nghiệp". Từ thời điểm này quảng cáo bằng tiếng Việt xuất hiện ngày càng nhiều trên mặt báo. Và đến những năm 1930, quảng cáo không chỉ tăng lên mà còn xuất hiện nhiều hình thức khác nhau.
Một câu chuyện vẫn được ghi nhận như là một ví dụ “kinh điển” của quảng cáo là chuyện về thầy giáo Pétrus Lê Công Đắc chuyên dạy tiếng Pháp, tiếng Hán. Năm 1936, ông Lê Công Đắc quảng cáo trên "Hà Nội báo" với nội dung như sau: "Tôi là Đỗ Trọng Quát, cảm ơn Giáo sư Pétrus vì nhờ theo các cua học của giáo sư mà tôi đã đỗ cao trong kỳ thi..." kèm theo thư cảm ơn là ảnh của học viên và ảnh của Giáo sư Lê Công Đắc. Quảng cáo này cho thấy ngay từ những năm 1930, người Việt đã rất sáng tạo trong việc quảng bá thương hiệu thông qua sự bảo chứng của bên thứ ba. Ngày nay, chiêu thức này vẫn đang được nhiều tổ chức, doanh nghiệp áp dụng.
Tờ Phụ Nữ Tân Văn từ năm ra đời (1929) đã quảng cáo đủ loại từ xe hơi Citroen, Fiat, ngân hàng đến kem làm đẹp cho phụ nữ… Nhà nghiên cứu Lê Văn Nghĩa nhận xét: “Nói không sợ mang tiếng hàm hồ rằng quảng cáo và rao vặt đã gắn liền với báo chí như răng với môi. Chỉ trừ tờ Nam Phong của cụ Quỳnh không thấy mục quảng cáo rao vặt nào chứ ngay tờ Phụ Nữ Tân Văn từ năm ra đời (1929) đã quảng cáo nhặng xị từ xe hơi Citroen, Fiat, ngân hàng đến kem làm đẹp cho phụ nữ”.
Một số mẫu quảng cáo rất “đời thường” đã được tìm thấy trên báo chí giai đoạn này, chẳng hạn quảng cáo làm tóc: “Các bà, các cô muốn có bộ tóc đẹp ăn với khuôn mặt uốn bằng máy điện Âu Mỹ do thợ chuyên môn làm giá phải chăng xin mời lại LEMUR - Coiffeur Pour Dames 14 Rue Des Ciurs - Hà Nội” (báo xuân Tiểu Thuyết Thứ 7). Sản phẩm Nước ngọt Con cọp chai hỏa tiễn được quảng cáo với những câu thơ “Nước ngọt Con Cọp ở đâu, Đấy là khỏe mạnh, sống lâu yêu đời. Nước ngọt Con Cọp mỗi chai, là Nguồn vui mạnh kéo dài tuổi xuân”. Quảng cáo nước ngọt Con Cọp xuất hiện trên rất nhiều tờ báo xuân vì chai nước ngọt này, cùng nước ngọt hiệu con Nai Phương Toàn xuất hiện hầu hết trên các bàn tiếp khách trong dịp Tết thời đó.
Ông Lê Văn Nghĩa nhận xét: “Đọc lại những quảng cáo và rao vặt ngày xưa, tôi khám phá ra được nhiều điều thú vị về kinh tế và bộ mặt xã hội lúc ấy. Tìm hiểu xem cái tủ lạnh đã có ở VN vào năm nào thì chỉ cần đọc cái quảng cáo Frigidaire “Làm ra lạnh để giữ gìn đồ ăn uống” trên Phụ Nữ Tân Văn vào năm 1929. Và như trên đã nói, nhờ quảng cáo mà ta biết xe Fiat, Chevrolet cũng đã có mặt tại Việt Nam từ lúc đó. Hay cần biết về giá trị kinh tế và xã hội của vàng thì chỉ cần đọc cuộc thi thơ quảng cáo cho tiệm vàng Nguyễn Thế Tài (43 Schroeder - Tạ Thu Thâu nay là Lưu Văn Lang) thì sẽ hiểu sức mạnh của vàng ngày ấy cũng không thua gì bây giờ”.
Kết luận
Lịch sử Việt Nam thời thuộc Pháp là một quá trình cần được nghiên cứu, đánh giá một cách tổng thể, toàn diện từ nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, nhiều góc độ. Quá trình khai thác thuộc địa của người Pháp cũng đồng thời đã đem lại cho xã hội Việt Nam những biến đổi sâu sắc trên nhiều mặt. Qua khảo sát, có thể rút ra một số nhận định sơ bộ như sau:
Nền kinh tế Việt Nam trong thời thuộc Pháp nói chung và giai đoạn 1930 – 1945 nói riêng, tuy là một nền kinh tế lệ thuộc vào nước Pháp và chính sách cai trị của họ, song đã hình thành tương đối các ngành kinh tế chủ yếu như nông nghiệp, công nghiệp, thương mại, dịch vụ.
Mặc dù chịu sự kiểm duyệt của chính quyền cai trị, báo chí Việt Nam đã có sự phát triển đáng kể trong giai đoạn này, qua đó hình thành một nền báo chí thực sự, có vai trò và ảnh hưởng quan trọng đến đời sống xã hội. Báo chí đông đảo về số lượng, ngày càng cải thiện về chất lượng nên đã thu hút được một lượng độc giả đông đảo.
Nội dung của báo chí đã thể hiện sự phong phú, đa dạng của đời sống xã hội Việt Nam trong giai đoạn đó. Qua báo chí chúng ta thấy được bức tranh khá đầy đủ về nền kinh tế hàng hóa, nền “kinh tế thị trường” của Việt Nam trong giai đoạn đó, thể hiện qua các nội dung kinh tế cũng như hoạt động quảng cáo trên báo chí. Điều này có ý nghĩa đối với việc nghiên cứu cả lịch sử kinh tế lẫn lịch sử báo chí của Việt Nam.
Hiện nay, dữ liệu báo chí của giai đoạn này vẫn được lưu trữ khá nhiều ở các thư viện, trung tâm lưu trữ trong và ngoài nước. Cần thiết có sự khảo sát sâu rộng, đa chiều, toàn diện nguồn sử liệu phong phú này để có thể tái hiện toàn bộ lịch sử đất nước trong giai đoạn này.
Danh mục tài liệu tham khảo 1. Nguyễn Quang Ngọc (2014), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nhà Xuất bản giáo dục (tái bản).
2. Đỗ Quang Hưng, Lịch sử báo chí Việt Nam 1865 – 1945, Nhà Xuất bản Khoa học xã hội.
3. Nguyễn Việt Chước (1974), Lược sử báo chí Việt Nam, Nhà Xuất bản Nam Sơn.
4. Lý Đăng Thạnh, Lịch sử Việt Nam - Tập 8: Đông Dương thuộc Pháp.
5. Nguyễn Ngọc Tiến (2013), Hoạt động quảng cáo ở Hà Nội xưa, Báo Hà Nội mới.
6. Lê Văn Nghĩa (2017), Quảng cáo, rao vặt trên báo chí Sài Gòn xưa, Báo Thanh niên.
7. Phạm Công Luận (2021), Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm, Nhà Xuất bản Phụ nữ.
8. Trần Vĩnh An (2018), Phụ nữ Tân Văn, một đỉnh cao của báo phụ nữ thời thuộc địa, Đài truyền hình TP.HCM.
(VNF) - Theo Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng, kinh tế số không còn là lựa chọn mà là con đường tất yếu, là động lực cốt lõi của tăng trưởng và đổi mới mô hình phát triển.
(VNF) - 5 nhà ga trên tuyến đường sắt Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng được khởi công đồng loạt, mở đầu cho việc triển khai dự án đường sắt hiện đại, góp phần tăng cường kết nối vùng và liên vận quốc tế Việt Nam – Trung Quốc.
(VNF) - Ngày 19/12, dự án đầu tư xây dựng tuyến cao tốc Đồng Đăng (Lạng Sơn) – Trà Lĩnh (Cao Bằng) giai đoạn 1 với tổng mức đầu tư gần 23.000 tỷ đồng đã chính thức được thông tuyến.
(VNF) - Bắc Ninh đồng loạt khởi công 4 dự án trọng điểm gồm khu công nghiệp và nhà ở xã hội với tổng quy mô hàng trăm héc-ta, tạo động lực mới cho phát triển công nghiệp, đô thị.
(VNF) - Chủ tịch Z Holding Hoàng Quang Thịnh cùng đồng phạm bị cáo buộc sản xuất, buôn bán sữa giả trị hơn 2.400 tỷ đồng, thu lời bất chính hơn 150 tỷ đồng.
(VNF) - Chủ tịch Tập đoàn Thuận An Nguyễn Duy Hưng ra hầu tòa phúc thẩm, xin giảm nhẹ hình phạt và cho biết gia đình vừa nộp thêm hơn 47 tỷ đồng để khắc phục hậu quả vụ án.
(VNF) - Bộ đội Biên phòng không chỉ bảo vệ chủ quyền quốc gia mà còn là "điểm tựa" thoát nghèo cho đồng bào biên giới như ở Pa Tần (Lai Châu) qua các hoạt động hỗ trợ kinh tế…
(VNF) - Ban Chỉ đạo có nhiệm vụ giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu, tư vấn, khuyến nghị, đề xuất giải pháp để giải quyết những vấn đề quan trọng, liên ngành trong quản lý, điều hành kinh tế vĩ mô.
(VNF) - Ông Nguyễn Thanh Phong và bà Trần Việt Nga, 2 cựu Cục trưởng Cục An toàn thực phẩm, bị cáo buộc nhận hối lộ và hưởng lợi cá nhân tổng cộng 52 tỷ đồng.
(VNF) - Công an Lạng Sơn đã vào cuộc điều tra và xác định các đối tượng lừa đảo chiếm đoạt tài sản của gần 3.000 người dân Việt Nam với số tiền giao dịch lên tới khoảng 7.500 tỷ đồng
(VNF) - Hòa Phát của tỷ phú Trần Đình Long, THACO của tỷ phú Trần Bá Dương và T&T Group của 'bầu Hiển' là những cái tên mới xuất hiện trong liên danh nhà đầu tư dự án đại lộ cảnh quan sông Hồng.
(VNF) - Công ty Cổ phần Tập đoàn Mặt Trời (Sun Group) sẽ là nhà đầu tư thực hiện dự án cải tạo, chỉnh trang và tái thiết hệ thống công viên dọc hai bên sông Tô Lịch theo hình thức đối tác công tư (PPP), hợp đồng xây dựng – chuyển giao (BT).
(VNF) - Khu đô thị thể thao Olympic, trục đại lộ cảnh quan sông Hồng, Khu đô thị phức hợp Hạ Long Xanh... là những dự án có tổng mức đầu tư lớn nhất sẽ được khởi công vào ngày 19/12.
(VNF) - Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Phạm Thanh Hà cho rằng, việc huy động nguồn lực để đảm bảo đủ nguồn vốn thực hiện, thúc đẩy kinh tế vận hành theo mô hình tăng trưởng mới dựa trên khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo là nhiệm vụ quan trọng và có tính quyết định mục tiêu tăng trưởng hai con số của Việt Nam.
(VNF) - Bộ Công an đề xuất xây dựng một ví điện tử quốc gia thống nhất, do Nhà nước dẫn dắt và tích hợp với VNeID, nhằm chi trả an sinh xã hội và thanh toán các dịch vụ công.
(VNF) - Hai cựu Cục phó Cục An toàn thực phẩm, ông Nguyễn Hùng Long và ông Đỗ Hữu Tuấn, bị cáo buộc cầm đầu nhận hối lộ hàng chục tỷ đồng từ doanh nghiệp.
(VNF) - Theo kết luận điều tra, cựu Cục trưởng Cục An toàn thực phẩm (ATTP), Bộ Y tế Trần Việt Nga bị cáo buộc đã chiếm đoạt hơn 8 tỷ đồng trong quá trình duyệt, “ngâm hồ sơ” cấp Giấy xác nhận nội dung quảng cáo đối với các sản phẩm thực phẩm bảo vệ sức khỏe.
(VNF) - TS Nguyễn Đức Hiển - Phó Trưởng Ban Chính sách, chiến lược Trung ương nhận định để đạt được con số tăng trưởng hai con số này, cơ cấu nền kinh tế buộc phải có sự chuyển dịch mạnh mẽ về chất. Khu vực công nghiệp chế biến, chế tạo cần phải đạt mức tăng trưởng gần 13% mỗi năm, trong khi khu vực dịch vụ cũng phải duy trì tốc độ tăng trưởng 12,5%.
(VNF) - Thủ tướng khẳng định mục tiêu tăng trưởng 2 con số của Việt Nam là có nền tảng, có dư địa và khả thi. Trên cơ sở đó, Chính phủ quyết tâm thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới, tăng tốc phục hồi và hướng tới mục tiêu tăng trưởng cao gắn với phát triển bền vững trong giai đoạn tới.
(VNF) - Theo Bộ Công an, vụ thâu tóm khu đất "vàng" Bến Vân Đồn có việc giao tiền hối lộ bằng hai vali, vỏ thùng rượu, quà tặng xa xỉ và lời hứa cho penthouse.
(VNF) - Công an TP. Đà Nẵng vừa triệt phá thành công chuyên án, bắt giữ nhóm đối tượng hoạt động phạm tội sử dụng công nghệ cao để lừa đảo chiếm đoạt tài sản bằng hình thức kinh doanh đa cấp tiền ảo với tính chất phức tạp, quy mô toàn quốc, số tiền chiếm đoạt hàng ngàn tỷ đồng.
(VNF) - Sáng 16/12, tiếp xúc cử tri phường Võ Cường (Bắc Ninh) sau Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, Phó Thủ tướng Nguyễn Hòa Bình cho biết Nhà nước sẽ điều chỉnh tăng lương khu vực công từ năm 2026, trong khi chờ ban hành bảng lương mới theo chủ trương cải cách tiền lương.
(VNF) - Theo Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng, kinh tế số không còn là lựa chọn mà là con đường tất yếu, là động lực cốt lõi của tăng trưởng và đổi mới mô hình phát triển.
(VNF) - Sau 5 tháng tạm ngưng hoạt động để nâng cấp, sửa chữa, sân bay Vinh sẽ khai thác trở lại vào ngày 19/12 với diện mạo mới và "điểm nhấn" công nghệ hiện đại giúp hành khách có trải nghiệm tốt hơn.