Tại Hội nghị Chính phủ với các địa phương về phát triển kinh tế - xã hội, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước từng bước chuyển đổi khỏi công cụ điều hành hành chính, tiến tới quản lý tăng trưởng tín dụng theo nguyên tắc thị trường.
Đầu tháng 7/2025, trong công điện về tăng cường hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa, Thủ tướng một lần nữa nhắc lại yêu cầu này.
Cơ chế giao chỉ tiêu tín dụng được Ngân hàng Nhà nước áp dụng từ năm 2012, nhằm kiểm soát chất lượng tín dụng, hỗ trợ điều hành lãi suất, lượng tiền và lạm phát. Trong hơn một thập kỷ, cơ chế này đã góp phần quan trọng vào việc giữ ổn định hệ thống ngân hàng, kiểm soát lạm phát và duy trì tăng trưởng kinh tế hợp lý.
Thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước cũng từng bước điều chỉnh cơ chế phân bổ room, tiến gần hơn với thông lệ quốc tế. Từ đầu năm nay, chỉ còn các ngân hàng thương mại trong nước phải tuân theo hạn mức, trong khi các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức phi tín dụng đã được dỡ bỏ.
Hầu hết các chuyên gia đánh giá bước đi này là động thái tích cực về mặt quản lý hành chính, nhưng vẫn cần lưu ý cân nhắc cả rủi ro. "Việc thay đổi này cần phải đi cùng với việc thay đổi các quy định về các tỷ lệ an toàn, đặc biệt trong các khía cạnh như tỷ lệ an toàn vốn (CAR) và quản trị rủi ro, nhằm đảm bảo ổn định hệ thống và tránh nguy cơ tăng trưởng nóng như đã xảy ra trong chu kỳ tín dụng trước", báo cáo cập nhật ngành ngân hàng của Công ty chứng khoán SSI mới đây bình luận.
Theo PGS.TS Nguyễn Thị Mùi, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia, việc xóa bỏ hoàn toàn hạn mức tín dụng chỉ nên được thực hiện theo lộ trình chặt chẽ, đi kèm với bộ công cụ giám sát hiệu quả. "Bài học từ giai đoạn tăng trưởng tín dụng nóng trước khủng hoảng kinh tế hơn một thập kỷ trước vẫn còn nguyên giá trị. Dù hệ thống ngân hàng đã có nhiều cải thiện, nhưng vẫn còn những tổ chức chưa đáp ứng đầy đủ chuẩn mực quản trị theo thông lệ quốc tế", bà Mùi nhấn mạnh.
Khi không còn “trần” tín dụng, các ngân hàng thương mại sẽ có toàn quyền quyết định quy mô tín dụng theo chiến lược riêng, khiến thị trường vận hành hoàn toàn theo cung – cầu. Trong bối cảnh năng lực quản trị rủi ro chưa đồng đều, điều này có thể tiềm ẩn nguy cơ bất ổn nếu thiếu kiểm soát.
Một điểm cần cân nhắc nữa là vấn đề hiệu quả sử dụng vốn khi “bơm” ra thị trường. Tính đến hết tháng 6/2025, theo Ngân hàng Nhà nước, dư nợ toàn hệ thống vượt mốc 17,2 triệu tỷ đồng, tăng 9,9% so với cuối năm trước. Cùng với con số tăng trưởng những năm gần đây, tín dụng tiếp tục cho thấy là trụ cột gần như duy nhất về dòng vốn cho sản xuất, tiêu dùng và đầu tư, khiến hệ thống ngân hàng phải “gánh” phần lớn cấu trúc vốn của nền kinh tế.
Tại phiên chất vấn Quốc hội hồi tháng 6, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cảnh báo tỷ lệ tín dụng/GDP đã lên mức kỷ lục tới 134%, cho thấy sự phụ thuộc ngày càng lớn vào tín dụng ngân hàng trong một mô hình tăng trưởng.
Đáng lưu ý, cũng theo Thống đốc Nguyễn Thị Hồng, chỉ số phản ánh hiệu quả sử dụng vốn ICOR của Việt Nam vẫn cao hơn nhiều nước, cho thấy đầu tư nhiều nhưng hiệu quả chưa tương xứng. Trong nhiều năm trở lại đây, để tạo ra 1 điểm phần trăm tăng trưởng GDP, nền kinh tế Việt Nam phải sử dụng hơn 2 điểm phần trăm tăng trưởng tín dụng. Tín dụng tăng mạnh, nếu không đi kèm với cải thiện về năng suất và chất lượng đầu tư, chỉ càng kéo giãn tỷ lệ nợ, làm suy yếu nền tảng tài chính trung và dài hạn.
Đây chính là lý do nhiều chuyên gia cho rằng chính sách điều hành tín dụng trong giai đoạn tới cần đặt mục tiêu cân bằng giữa tăng trưởng và bền vững.
Theo ông Phạm Chí Quang, Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ (Ngân hàng Nhà nước), cần một lộ trình điều chỉnh mang tính thị trường hơn, nhưng vẫn đảm bảo giám sát chặt chẽ để duy trì an toàn hệ thống, kiểm soát lạm phát và đảm bảo an ninh kinh tế.