Diễn đàn VNF

Chậm giải ngân gói 40.000 tỷ: 'Chương trình tiếp sức bị đuối sức'

(VNF) - Chuyên gia kinh tế, TS Nguyễn Hoàng Hiệp cho rằng, số chính sách của Chương trình hỗ trợ chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội được triển khai rất chậm. Việc có thể phải ngừng triển khai sẽ dẫn đến doanh nghiệp mất niềm tin.

Chậm giải ngân gói 40.000 tỷ: 'Chương trình tiếp sức bị đuối sức'

Chuyên gia kinh tế, TS Nguyễn Hoàng Hiệp

- Thời gian qua, Quốc hội đã ban hành Nghị Quyết số 43 về Chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn năm 2021 -2025. Tuy nhiên trên thực tế, một số chương trình thực hiện Nghị quyết này triển khai rất chậm, quan điểm của ông về vấn đề này?

TS Nguyễn Hoàng Hiệp: Đến nay đã có khoảng 176.000 tỷ đồng, tương đương khoảng 50% nguồn lực của chương trình phục hồi kinh tế theo Nghị quyết 43 của Quốc hội được dành đầu tư vào những dự án hạ tầng trọng điểm, chiến lược. 

Tuy nhiên, triển khai một số chính sách thuộc chương trình này đang gặp khó. Cụ thể là gói chính sách tiền tệ được triển khai theo Nghị định số 31 của Chính phủ về hỗ trợ lãi suất 2%/năm từ nguồn ngân sách nhà nước được áp dụng từ năm 2022 có tỷ lệ giải ngân rất thấp. Thống kê cho thấy, tính đến cuối tháng 10, gói này chỉ mới giải ngân 2,3% nguồn lực, tức là mới giải ngân được 873 tỷ đồng trong tổng số 40.000 tỷ đồng.

Tôi được biết, khi phát biểu trước Quốc hội, Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư thậm chí phải nêu quan điểm: “Chính phủ đề xuất Quốc hội cho phép thực hiện kế hoạch này tới hết năm 2023, nếu không giải ngân được hết thì sẽ hủy dự toán”.

Trên cơ sở quan sát thực tế, đối với gói hỗ trợ lãi suất 2%, tôi nhận thấy một nghịch lý là doanh nghiệp đủ điều kiện thì không muốn vay, mà doanh nghiệp muốn vay lại e ngại khi tiếp cận.

Vậy tại sao các gói hỗ trợ khác các doanh nghiệp vẫn có thể tiếp cận được? Đơn cử như trước đây, dù thời gian giải ngân kéo dài hơn so với kế hoạch ban đầu nhưng gói hỗ trợ nhà ở xã hội 30.000 tỷ đồng đã giải ngân hết, tạo hiệu ứng tích cực cho thị trường bất động sản ở giai đoạn hậu khủng hoảng, suy thoái. Phải chăng đây là do các quy định, đối tượng chưa thật sự phù hợp để tạo nhịp nối cung - cầu tiếp nhận vốn hỗ trợ hay vì lý do nào khác? Và nếu có bất cập như vậy, thì trách nhiệm của việc gỡ vướng, triển khai… nên cần được làm rõ, để rút kinh nghiệm cho việc triển khai các chương trình hỗ trợ khác sau này.

- Theo ông, đâu là nguyên nhân của vấn đề này?

Như Bộ trưởng đã giải thích, ngoài yếu tố khách quan như nền kinh tế gặp khó khăn thì còn từ việc xuất hiện tâm lý e ngại thủ tục hậu kiểm, không chỉ các ngân hàng mà nhiều lãnh đạo địa phương, doanh nghiệp cũng lo ngại về vấn đề này.

Nguyên nhân cơ bản là doanh nghiệp đủ điều kiện nhưng lựa chọn không thụ hưởng chính sách, chủ yếu do tâm lý e ngại công tác thanh kiểm tra hậu giải ngân. Doanh nghiệp cân nhắc giữa lợi ích từ việc được hỗ trợ lãi suất và chi phí phát sinh nếu nhận hỗ trợ lãi suất như: phải theo dõi hồ sơ, chứng từ, tuân thủ các thủ tục hậu kiểm, thanh tra, kiểm toán, kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền…

Sau đó, doanh nghiệp lại e ngại có thể bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định phải thu hồi số tiền hỗ trợ lãi suất do số tiền này được hạch toán vào lợi nhuận doanh nghiệp và chia cổ tức cho cổ đông, e ngại bị các cơ quan thanh tra, kiểm tra đánh giá là trục lợi chính sách.

Hay như, việc xác định đối tượng thuộc diện "có khả năng phục hồi" theo quy định tại Nghị quyết 43 là khá khó khăn. Bởi một số doanh nghiệp dù có khả năng trả nợ, nhưng cũng không thể khẳng định “có khả năng phục hồi”, trong khi đó doanh nghiệp có lợi nhuận hoặc doanh thu trong giai đoạn dịch bệnh cao hơn hiện tại nên khó có thể đánh giá việc đáp ứng tiêu chí "phục hồi" đã đặt ra.

Trước đây, thời điểm năm 2022, khi giai đoạn đầu được triển khai, tình hình kinh tế - xã hội nói chung và hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực được hỗ trợ lãi suất nói riêng có nhiều chuyển biến tích cực hơn so với thời điểm ban hành nghị quyết. Nhiều doanh nghiệp trở lại hoạt động bình thường sau đại dịch Covid-19 dẫn đến nhu cầu được hỗ trợ có thể thay đổi so với thời điểm ban hành chính sách...

Một nguyên nhân khác nữa xuất phát từ phía ngân hàng. Các lãnh đạo ngân hàng cũng vì e ngại khâu “hậu kiểm” nên thật sự không tận tâm với sự sống còn của doanh nghiệp như hiện nay.

- Việc không đạt tiến độ giải ngân gói hỗ trợ lãi suất 2% có tác động như thế nào đến doanh nghiệp?

Như Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư đã nói, hết năm nay không giải ngân hết thì sẽ đề xuất hủy và việc này không ảnh hưởng tới bội chi do đây là khoản chưa huy động. Có nghĩa cho rằng nguồn lực không suy chuyển, không bị ảnh hưởng. Song trên thực tế, việc này ảnh hưởng tới việc tiếp sức cho doanh nghiệp trong giai đoạn khó khăn lúc này, doanh nghiệp thiếu tin tưởng vào một chính sách đúng và qua đó là ảnh hưởng lan tỏa tới nền kinh tế.

Một chương trình có ý nghĩa, tạo kỳ vọng "tiếp sức" cho sức khỏe doanh nghiệp, nhưng lại chính bản thân nội tại chương trình dần đuối sức khi triển khai thực tế, không hiệu quả, các bên từ tìm kiếm giải pháp gỡ vướng cho đến doanh nghiệp có thể sẽ là cảm xúc thờ ơ… Nó ảnh hưởng kép đến cả niềm tin của doanh nghiệp, đến kỳ vọng vào các chương trình, chính sách tạo đòn bẩy hỗ trợ - thúc đẩy trong tương lai. 

Điều này tôi cho là quan trọng và cần đánh giá để có giải pháp ứng xử phù hợp, trong cấp bách cũng như lúc bình thường. Do đó, nên chăng trong thời gian gấp rút còn lại của năm, cũng là giai đoạn doanh nghiệp cần được tiếp sức, tăng tốc mạnh mẽ để phục hồi, tranh thủ mùa lễ tết cuối năm và tạo đà cho năm tới, rất cần các nhà quản lý, cơ quan hữu quan nghiên cứu xem xét mở rộng đối tượng doanh nghiệp tiếp cận gói vay, theo hướng mặc dù không đủ điều kiện nhưng xét khả năng vận hành doanh nghiệp và giá trị hình thành trong tương lai với ngành sản xuất và dịch vụ. Cùng với đó là đơn giản hoá thủ tục hồ sơ vay và giải ngân nhằm hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận nhanh nguồn vốn.

Tin mới lên