Tiêu điểm

Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Chủ tịch nước đã qua đời ở tuổi 99

(VNF) - Do tuổi cao sức yếu, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã qua đời tại Hà Nội tối nay (22/4/2019), hưởng thọ 99 tuổi.

Đại tướng Lê Đức Anh, nguyên Chủ tịch nước đã qua đời ở tuổi 99

Nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh qua đời

Theo nguồn tin từ Ban Bảo vệ chăm sóc sức khỏe cán bộ Trung ương, Đại tướng Lê Đức Anh, sinh năm 1920, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước, sau một thời gian lâm bệnh, mặc dù được Đảng, Nhà nước, tập thể các giáo sư, bác sỹ tận tình cứu chữa, gia đình hết lòng chăm sóc, nhưng do tuổi cao sức yếu, đã từ trần vào hồi 20h10 ngày 22/4/2019 tại nhà Công vụ, số 5A, phố Hoàng Diệu, TP Hà Nội.

Đại tướng Lê Đức Anh là nguyên ủy viên Bộ Chính trị, nguyên phó bí thư Quân ủy trung ương, bộ trưởng Bộ Quốc phòng, nguyên Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam, nguyên cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Thông tin về lễ tang nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh sẽ được thông báo sau.

Nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh sinh ngày 1/12/1920; quê quán xã Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Từ năm 1937- 1944, ông Lê Đức Anh bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng, trong Mặt trận Dân chủ huyện Phú Vang và Phú Lộc tỉnh Thừa Thiên Huế

Năm 1944, ông tổ chức và phụ trách các nghiệp đoàn cao su ở Lộc Ninh.

Từ tháng 8/1945 -  tháng 10/1948, ông Lê Đức Anh tham gia Quân đội, giữ các chức vụ từ Trung đội trưởng đến Chính trị viên Tiểu đoàn và Trung đoàn.

Từ tháng 10/1948 – năm 1950, ông làm tham mưu trưởng các Quân khu 7, Quân khu 8 và đặc khu Sài Gòn-Chợ Lớn.

Từ năm 1951 – năm 1954, ông là tham mưu phó, quyền Tham mưu Trưởng Bộ Tư lệnh Nam Bộ.

Từ năm 1955 - năm1963, ông là Cục phó Cục Tác chiến; Cục Trưởng Cục Quân lực thuộc Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam.

Từ tháng 8/1963 – tháng 2/1964, ông làm Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam.

Từ tháng 2/1964 – năm 1974, ông giữ chức Phó Tư lệnh, kiêm Tham mưu trưởng Quân Giải phóng Miền Nam; Tư lệnh Quân khu 9 (năm 1969).

Từ năm 1974 – năm 1975, ông là Phó Tư lệnh Quân giải phóng Miền Nam, (tháng 6/1974 được thăng quân hàm vượt cấp từ Đại tá lên Trung tướng); Phó Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh, kiêm Tư Lệnh cách quân hướng Tây Nam đánh vào Sài Gòn.

Từ năm 1976 – năm 1980, ông Lê Đức Anh giữ chức Tư lệnh Quân khu 9; Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7, kiêm chỉ huy trưởng Cơ quan tiền phương của Bộ Quốc phòng ở mặt trận Tây Nam; được thăng quân hàm Thượng tướng năm 1980.

Từ năm 1981 – năm 1986, ông làm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, kiêm tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Camphuchia; được Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa V bầu vào Bộ Chính trị (năm 1982); được thăng quân hàm Đại tướng năm 1984; được giao giữ chức Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam năm 1986.

Từ tháng 2/1987 – tháng 8/1991, ông là Ủy viên Bộ Chính Trị Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI: 1986-1991), Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương; Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; là Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII1991-1997), Thường trực Bộ Chính trị.

Từ năm 1992 – tháng 9/1997, ông Lê Đức Anh là Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng; là Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Từ tháng 12/1997 – tháng 4/2001, ông là Ủy viên Ban cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng.

Từ tháng 4/2001, Đại tướng Lê Đức Anh nghỉ hưu.

Tin mới lên