Giao thương hay phòng thủ: Khi các cường quốc phương Tây gõ cửa
(VNF) - Vào thế kỷ 19, khi những tàu thuyền của các quốc gia phương Tây như Anh, Pháp, Mỹ ghé thăm bờ biển Việt Nam, đất nước nhỏ bé đã nhanh chóng thu hút sự chú ý của các cường quốc nhờ vào sự phong phú tài nguyên và lợi thế thương mại độc đáo.
Sử sách triều Nguyễn ghi lại rằng, nhà vua nhiều lần phái các quan lễ tạ thần biển để cầu mong vận tải đường biển được yên ổn. Điều này cũng cho thấy tầm quan trọng của biển đối với nền kinh tế và sự phát triển của quốc gia, đặc biệt trong việc đảm bảo an toàn cho các hoạt động thương mại và giao thương trên biển. Sách Đại Nam thực lục chép, Canh thìn, Minh Mệnh năm thứ nhất (1820), mùa hạ tháng 5, nhà vua sai quan lễ tạ thần biển, vì cớ việc vận tải đường biển được yên ổn.
Theo tổng hợp của Sử gia Alastair Lamb, năm 1822, phái đoàn bác sĩ John Crawfurd, người Anh đến nước ta. Trong báo cáo gửi về châu Âu, Crawfurd ca ngợi Cochin China như một “miền đất hứa” với những điều kiện thương mại tuyệt vời, vị trí địa lý chiến lược. Ông cho rằng nước ta là một điểm trung chuyển hoàn hảo cho việc buôn bán giữa Đông Á và các khu vực khác trên thế giới. Hệ thống sông ngòi dày đặc và hàng loạt cảng biển thuận lợi giúp tàu thuyền dễ dàng di chuyển và giao thương.
Điều khiến Crawfurd ấn tượng là những mặt hàng quý giá của Việt Nam, đặc biệt là đường cát và tơ tằm thô. Đường cát được sản xuất ở các tỉnh miền Trung, không chỉ rẻ mà còn có chất lượng tốt, trở thành món hàng hấp dẫn đối với các thị trường phương Tây.

Châu bản triều Nguyễn (hiện bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I) cho thấy rõ điều này, đồng thời tiết lộ một thông tin thú vị là khi tàu buôn Phú Lãng Sa (nước Pháp) đến cửa biển Đà Nẵng, mang theo những món hàng do triều Nguyễn đặt. Triều đình đã dùng đường cát để trả thay cho số bạc cần phải trả khi mua lưu huỳnh, như ghi chép trong bản tấu của tỉnh Quảng Nam: “Tháng Chạp năm ngoái, thuyền buôn Ba Lãng Sa đến cửa biển Đà Nẵng. Những thứ vật liệu do nhà nước mua, họ đã đệ nạp đủ số. Trừ số bạc mua lưu huỳnh đã khấu trừ bằng đường cát, còn số bạc mua súng điểu thương và đá lửa là 13.256 đồng bạc”.
Điều này cho thấy, người phương Tây lúc bấy giờ rất thích đường cát của nước ta. Tơ tằm thô cũng là một mặt hàng được ưa chuộng, đặc biệt là tại Pháp, nơi nhu cầu về chất liệu này rất lớn.
Crawfurd cũng nhận ra, mặc dù có nhiều lợi thế thương mại như vậy nhưng “Đế chế Cochin China gần như chỉ giao thương với người Trung Quốc. Nền mậu dịch với Xiêm không đáng kể và với châu Âu thậm chí còn ít hơn”.
Cũng theo tiết lộ của Crawfurd: “Trong vòng hai, ba năm trở lại đây, một vài nhà buôn của họ (Cochin China) đã tới cảng châu Âu tại eo biển Malacca và đặc biệt là Singapore”. Ông chứng nhận: “Người Cochin China vẫn duy trì lượng lớn giao thông đường biển giữa các khu vực của vương quốc. Trong quá trình này, cũng như trong quá trình vận chuyển cống phẩm tới kinh đô, họ đã thu được rất nhiều kinh nghiệm hàng hải”.
Trong khi các cường quốc phương Tây cố gắng thiết lập mối quan hệ thương mại, triều Nguyễn lại có cách tiếp cận thận trọng. Vua Gia Long không phản đối việc buôn bán với phương Tây nhưng ông cũng không sẵn sàng mở cửa hoàn toàn cho các mối quan hệ ngoại giao sâu rộng. Một ví dụ rõ ràng là vào năm 1804, khi phái đoàn Roberts tới Huế năm 1804 với mong muốn thiết lập quan hệ ngoại giao, vua Gia Long chấp nhận để tàu thuyền Anh vào Việt Nam buôn bán như tàu các nước khác và như đã làm từ trước đến nay, nhưng từ chối mối quan hệ chặt chẽ hơn.
Thái độ này vẫn tiếp tục duy trì dưới thời Minh Mạng. Nhà vua từng chia sẻ rằng dù rất tôn trọng các quốc gia phương Tây, ông vẫn thấy không cần thiết phải thiết lập những hiệp ước giao thương.
Ông cho rằng Việt Nam có thể buôn bán với phương Tây, nhưng không cần thiết phải xây dựng một mối quan hệ ngoại giao sâu sắc. “Trẫm cũng có những ý nghĩ tình cảm như Đức vua nước Pháp và trẫm cũng ước muốn luôn có được giao hảo hữu nghị với Đức vua. Nhưng một hiệp ước về giao thương mà để làm gì? Nước Pháp quá xa xôi với vương quốc của ta để thần dân của ta có thể đi sang bên đó buôn bán với người Pháp. Bao nhiêu biển cả ngăn cách hai đất nước, với lại xứ ta chẳng có thuyền bè nào có thể vượt qua chừng đó biển cả đại dương. Nếu người Pháp mong muốn mang hàng hóa sang xứ này thì ta sẽ đón tiếp như những thần dân của những xứ sở khác, miễn sao là họ tôn trọng phong tục tập quán của bản xứ”. (Lời của vua Minh Mạng qua ghi chép của Michel Đức Chaigneau)
Vào năm 1832, khi phái đoàn Mỹ đến xin phép thiết lập quan hệ ngoại giao và thương mại, vua Minh Mạng vẫn cho phép thương thuyền Mỹ vào cảng Đà Nẵng nhưng yêu cầu họ phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của triều đình: “Triều đình ta với tinh thần mềm dẻo quý mến người phương xa, không tiếc gì mà không dung nạp họ (phái bộ Mỹ). Tuy nhiên, họ mới tới lần đầu, các chi tiết lễ nghi về ngoại giao thông hiếu chưa được am tường; có thể sai quan Thương bạc viết tư văn thông báo cho họ biết, nếu muốn thông thương mậu dịch với nước ta, ta cũng không cự tuyệt, nhưng phải tuân theo những hiến định đã có từ trước đến nay. Từ nay, nếu có thương thuyền tới, thì cho phép được ghé vào cửa Đà Nẵng, Trà Sơn Úc, bỏ neo tại đó, chứ không được tự ý lên bộ. Đó là ý cảnh giác phòng gian nằm trong chính sách ngoại giao mềm dẻo của ta vậy”.
Dưới triều Nguyễn, Đà Nẵng không chỉ là điểm dừng chân của các tàu buôn mà còn là một trong những khu vực chiến lược quan trọng mà triều Nguyễn đặc biệt chú trọng. Vua Minh Mạng đã ban hành những chỉ thị rõ ràng rằng tàu thuyền phương Tây chỉ được phép vào cửa biển Đà Nẵng. Quy định này giúp triều đình dễ dàng kiểm soát mọi giao dịch. Thư báo của Thomas Wade về chuyến viễn du tới Cochin China, năm 1855 viết: “Luật đất nước đã quy định mọi tàu ngoại quốc tới An Nam chỉ được cập bến Đà Nẵng và không được tới các cảng hay đồn nào khác”. “Chữa giọi cửa nhà từ lúc chưa mưa” là tư tưởng của vua Minh Mạng về tầm quan trọng của công tác phòng thủ.
Một điều thú vị là mặc dù các vua triều Nguyễn rất chú trọng việc kiểm soát các hoạt động ngoại giao và thương mại, nhưng họ vẫn thể hiện sự cởi mở nhất định. Đặc biệt, dưới triều Minh Mạng, các phái đoàn đã được phái đi bằng đường biển để tìm hiểu về tình hình mọi mặt, trong đó có thương mại của các nước. Nguyễn Tri Phương, Lý Văn Phức, Đào Trí Phú đã nhiều lần được vua Minh Mạng sai phái ra nước ngoài công cán và nắm bắt tình hình buôn bán. Có lần vua hỏi Đào Trí Phú, Nguyễn Tri Phương rằng: “Đất Bột Nê ở Tây Dương là chỗ sản xuất nhiều vàng ngọc mà thuyền buôn ít lui tới là cớ gì?” Các quan thưa: Xứ ấy có đường thông đến Đại Tây [nhưng] đường thuỷ cách xa, sóng gió dữ dội, nguy hiểm, giặc biển thường luẩn quẩn ở đây làm cản trở đường biển, cho nên thuyền buôn đều lánh không đến. Năm 1823, vua sai Cai cơ Ngô Văn Trung và Tuần hải đô dinh Hoàng Trung Đồng chia nhau ngồi thuyền hai hiệu Bình Ba, Định Lãng đi Hạ Châu. Vua Dụ rằng: “Chuyến đi này không phải để mua hàng hoá, chính là muốn biết núi sông phong tục nhân vật của nước ngoài. Bọn ngươi đến nơi phải xem kỹ la bàn, ghi chép rõ ràng cho biết phương hướng”.
Chính sách ngoại thương của triều Nguyễn có thể không còn phù hợp với thời đại ngày nay, nhưng tinh thần thận trọng vẫn là bài học quý giá. Trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng phát triển, việc duy trì sự độc lập trong quan hệ quốc tế, đồng thời mở cửa để giao lưu và học hỏi là một cách tiếp cận khôn ngoan.
Ôn cố tri tân: Thương cảng Vân Đồn - Trung tâm giao thương quốc tế ‘vang bóng một thời’
- Chợ Việt xưa và nay: Vân Đồn, từ thương cảng cổ đến cực phát triển mới 01/02/2022 09:04
- Chợ Việt xưa và nay: Chợ xưa còn một chút này 29/01/2022 09:35
- Chợ Việt xưa và nay: Đông Ấn Hà Lan và 64 năm buôn bán ở Đàng Ngoài 29/01/2022 09:33
Khu biệt thự tiền tỷ hoang vắng trên vành đai 4 - Thủ đô
(VNF) - Nhiều căn biệt thự, liền kề thuộc dự án HUD Me Linh Central tại huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội có giá hàng chục tỷ đồng nhưng đang bị "bỏ không" một cách lãng phí.