'Thăm' khu đất xây 365 căn nhà ở xã hội ngay trong nội đô Hà Nội
(VNF) - Dự án nhà ở xã hội NO1 thộc Khu đô thị mới Hạ Đình, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân và xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.
Ngày 9/7, trong khuôn khổ Báo cáo kinh tế vĩ mô thường niên, Trường Đại học Ngân hàng Tp. Hồ Chí Minh tổ chức “Hội thảo Báo cáo Kinh tế vĩ mô: Chủ động trước các cú sốc - Duy trì ổn định kinh tế vĩ mô”; trong đó, vấn đề tỷ giá được coi là điểm nhấn.
Theo phân tích của PGS.TS. Nguyễn Đức Trung, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Ngân hàng Tp. Hồ Chí Minh, từ đầu năm đến nay, điều hành kinh tế vĩ mô, đặc biệt là chính sách tiền tệ liên tục bị áp lực từ bên ngoài dội vào.
Trước hết, kinh tế Trung Quốc giảm tốc và xuất hiện những bất ổn trầm trọng. Đồng CNY giảm mạnh nhất trong vòng 3 năm, thị trường chứng khoán chịu áp lực từ chiến tranh thương mại với Mỹ, khiến 5.000 tỷ USD vốn hoá bốc hơi.
Tiếp đó, thị trường tài chính tiền tệ thế giới biến động mạnh từ việc FED thắt chặt tiền tệ. Trong năm 2018, Fed dự định tăng lãi suất 3 lần, sau lần tăng lãi suất lần 1 năm 2018 vào ngày 21/3/2018, lãi suất USD đã lên tới 1,75%, mức cao nhất kể từ năm 2008.
Chỉ số USD Index tăng mạnh trong khi nhiều đồng tiền trong khu vực giảm so với USD, đã tác động tiêu cực tới khả năng cạnh tranh hàng xuất khẩu Việt Nam.
Mặt khác, lợi suất trái phiếu chính phủ Mỹ kỳ hạn 10 năm cũng tăng lên mức kỷ lục 3,07% vào ngày 17/5/2018, đẩy áp lực tháo chạy của các dòng vốn đầu tư khỏi các thị trường tài chính khu vực mới nổi (emerging market) và thị trường cận biên (frontier market).
Đáng chú ý, do bất ổn về địa chính trị và cắt giảm sản lượng của OPEC, giá dầu tăng mạnh. Đến hết tháng 6/2018, giá dầu Brent chạm 77 USD/thùng, tăng 62,47% trong vòng 1 năm qua.
Rõ ràng, những tác động bất lợi từ các yếu tố nêu trên, cộng với sự xuất hiện của chủ nghĩa bảo hộ, biệt lập từ các đối tác xuất khẩu Việt Nam, đã tác động mạnh lên cán cân thương mại trong nước, dẫn đến mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu 10% trong năm nay khó đạt.
PGS.TS Nguyễn Đức Trung tính toán: Quý I/2018, cán cân thương mại hàng hoá thặng dư khoảng 4,86 tỷ USD, kéo theo cán cân vãng lai thặng dư khoảng 3,93 tỷ USD.
Tuy nhiên, khi cán cân thương mại hàng hoá đảo chiều trong quý II, thâm hụt 2,1 tỷ USD, đã góp phần trọng yếu đẩy cán cân vãng lai thâm hụt khoảng 3,5 tỷ USD.
Tính chung 6 tháng đầu 2018, cán cân vãng lai thặng dư khoảng 0,5 tỷ USD và trong 6 tháng cuối năm, khó có thể tiếp tục thặng dư do những nhân tố bất ổn nêu trên.
Đáng mừng, trong khi cán cân vãng lai thâm hụt thì cán cân tài chính 2 quý đầu năm tiếp tục thặng dư.
Trong hai quý đầu năm 2018, cán cân tài chính với mức thặng dư là 5,7 tỷ USD, đã trở thành nhân tố quyết định đẩy cán cân tổng thể thặng dư, tạo điều kiện cho Ngân hàng Nhà nước mua ngoại tệ vào, làm tăng quy mô dự trữ ngoại hối.
Chỉ tính riêng 2 quý đầu năm 2018, Ngân hàng Nhà nước mua vào xấp xỉ 9 tỷ USD, chiếm 14% tổng giá trị dự trữ ngoại hối tích luỹ đến tháng 6 năm 2018. Cuối quý II/2018, dự trữ ngoại hối đạt kỷ lục trên 63 tỷ USD, tương đương với 15 tuần nhập khẩu ước tính cho cả năm 2018.
Ngày 5/7/2018, tỷ giá vọt lên đỉnh điểm khi mà tỷ giá liên ngân hàng đạt mức 23.040 VND/USD, tăng 1,45% so với cuối 2017, đẩy tỷ giá thị trường tự do mua vào bán ra lần lượt là 23.120 VND/USD và 23.150 VND/USD, tăng khoảng 1,90%.
Đây là mức tăng mạnh nếu so với thời điểm đầu năm 2016 đến hết năm 2017, tỷ giá VND/USD tăng chưa đến 1%.
Các chuyên gia phân tích, tỷ giá tăng nóng, ngoài việc gây bất ổn đối với vĩ mô, còn tạo ra nhiều tiêu cực tới hoạt động của doanh nghiệp cũng như thu nhập người lao động.
Bởi lẽ, sản xuất trong nước chủ yếu phụ thuộc vào nhập khẩu; trong đó, 60% nhập khẩu máy móc; 30% nhập khẩu máy móc, thiết bị và 7% - 8% là nhập khẩu tiêu dùng. Với nền kinh tế thuần tuý gia công, hàm lượng giá trị gia tăng thấp, nếu VND mất giá 2% sẽ khiến chi phí trung gian toàn bộ nền kinh tế tăng thêm do giá trị nhập khẩu tăng và chỉ số giá sản xuất (PPI) tăng.
Chưa kể, những doanh nghiệp có nhiều khoản nợ ngoại tệ như ngành dầu khí (PVN, PVT, GAS), điện lực, hàng không, vận tải biển, nếu biến động tỷ giá tăng, sẽ đẩy nợ lên cao.
Có thể thấy, trước thực tế trên, Ngân hàng Nhà nước đã mạnh mẽ can thiệp bằng cả hai kênh truyền thông và nghiệp vụ. Chưa bao giờ cả vụ trưởng chuyên ngành và Thống đốc cùng xuất hiện tại một thời điểm khẳng định tiềm lực dự trữ ngoại hối trên 63 tỷ USD.
Tiếp theo sau đó, Ngân hàng Nhà nước hạ giá niêm yết bán ra thị trường với mức giảm tới 264 đồng so với trần tỷ giá, tương đương 1%, về 23.050 VND/USD cho đến cuối tuần trước.
Kết quả là sau 3 ngày chào bán giá thấp, không một ngân hàng nào gửi đơn đăng ký mua ngoại tệ; trong khi, giá giao dịch trên liên ngân hàng vẫn thấp hơn so với giá chào bán của nhà điều hành.
Có vẻ như Ngân hàng Nhà nước đang ung dung nhìn ngắm thị trường tự điều tiết, tự cân đối cung cầu và giá.
Tất nhiên, để có được kết quả này thì nhà điều hành còn tác động vào thị trường một công cụ khác: bơm hút trên nghiệp vụ thị trường mở (OMO).
Nhớ lại các năm 2007 – 2008, khi dòng vốn ngoại chảy vào, Ngân hàng Nhà nước đã mua một lượng ngoại tệ khủng khiếp, ước 9 tỷ USD trong một thời gian ngắn. Song song, Ngân hàng Nhà nước đẩy ra một lượng tiền đồng tương đương, khiến cho lạm phát nhảy vọt lên 2 con số. Trong bối cảnh đó, OMO ít được dùng, thay vào đó là các động thái có phần nặng nề như phát hành tín phiếu bắt buộc, hút hàng chục nghìn tỷ đồng tiền gửi kho bạc về nhốt trong kho.
Tuy nhiên, theo phân tích của PGS.TS Nguyễn Đức Trung, trong 2 năm qua, đặc biệt là 6 tháng đầu năm 2018, Ngân hàng Nhà nước đã áp dụng cách thức tiếp cận mới trong nghiệp vụ mua vào ngoại tệ để tăng dự trữ, kèm với khả năng trung hòa lượng tiền trong lưu thông một cách linh hoạt.
Cụ thể, trước đây, giao dịch ngoại hối giao ngay là hình thức giao dịch chủ yếu trong nghiệp vụ mua vào ngoại tệ, nay giao dịch kỳ hạn với các ngân hàng thương mại được áp dụng khá linh hoạt, góp phần điều chỉnh thời điểm cũng như quy mô bơm tiền vào hệ thống. Trong khi đó, khả năng hút tiền từ lưu thông về thông qua nghiệp vụ thị trường mở tốt hơn.
Nhờ đó, vốn khả dụng ở các ngân hàng dư thừa ít, ngăn họ dùng VND “đánh quả” ngoại tệ. Trong trường hợp găm giữ, với tiềm lực dự trữ ngoại hối mạnh mẽ, bất kể lúc nào, Ngân hàng Nhà nước cũng có thể xả ra, những đơn vị nào găm, chắc chắn lỗ nặng.
Tại hội thảo, các chuyên gia đều thống nhất, trong bối cảnh từ nay đến hết năm, thậm chí kéo dài sang 2019, vẫn tiềm ẩn những bất ổn. Trong trường hợp không dự báo được, sẽ biến thành những cú sốc kinh tế.
Ông Nguyễn Xuân Thành, Giám đốc Phát triển, Trường Đại học Fulbright Việt Nam phân tích: trong doanh số hàng xuất khẩu Việt Nam (tính cả khối FDI và doanh nghiệp nội địa) có một tỷ trọng lớn xuất sang các nước châu Á, trong đó có Trung Quốc, từ đó đi Mỹ. Khi chiến tranh thương mại Mỹ - Trung nổ ra, chắc chắn số hàng hoá của ta xuất sang Trung Quốc sẽ bị ảnh hưởng. “Càng dựa vào FDI, càng phải thấy rủi ro không ít và đó chính là cú sốc mà ta phải dự báo và tính toán”, ông Thành nhấn mạnh.
Ông Võ Trí Thành, nguyên Phó Viện Trưởng Viện Nghiên Cứu và Quản lý Kinh tế Trung ương phân tích, về nhân tố chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến kinh tế thực thương mại của Việt Nam và được truyền dẫn, tạo thành cú sốc đối với thị trường tài chính. Cú sốc tài chính gắn với 2 điểm mà đầu tiên là chính sách tiền tệ của FED tăng lãi suất.
Tiếp đó, ở các nước, khi đồng USD tăng, họ sẽ phá giá để giữ vị thế cạnh tranh, từ đó, sẽ gây áp lực lên VND.
Theo đánh giá của PGS.TS Trần Hoàng Ngân, thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng phân tích, trong tình hình hiện nay, sự biến động về kinh tế, chính trị trên thế giới rất khó lường, khiến các dự báo của IMF và các tổ chức quốc tế liên tục thay đổi. Bởi vậy, Việt Nam cũng không nên ngần ngại đưa ra các dự báo.
“Cách đây hai ngày, Mỹ đưa ra các sắc thuế với nhập khẩu hàng từ Trung Quốc, lập tức sẽ tác động đến cán cân thương mại toàn cầu, cũng như chuyển dịch trong cán cân thương mại Việt Nam”, ông Trần Hoàng Ngân nói.
Ngoài ra theo ông, hiện tại, cần phải lưu tâm đặc biệt đến yếu tố giá dầu, bởi mối liên hệ rõ rệt với lạm phát.
Ông Bùi Quốc Dũng, Trợ lý Trưởng Ban kinh tế Trung ương phân tích thêm một bất cập nội tại, đó là: tiền gửi kho bạc trong hệ thống ngân hàng hiện quá nhiều, tạo ra dư cung thanh khoản, dẫn đến lãi suất thấp.
Khi lãi suất VND thấp thì trên thị trường liên ngân hàng, ngân hàng muốn giữ USD hơn là VND do chênh lệch lãi suất có lợi cho nắm giữ USD.
“Chúng tôi cho rằng, tiền gửi Kho bạc nhà nước phải được giữ ở Ngân hàng Nhà nước chứ không được để ngân hàng thương mại, để tránh thừa VND quá lâu trong hệ thống ngân hàng”, ông Dũng nhấn mạnh.
Đánh giá về cân đối cán cân thanh toán tổng thể, một chuyên gia dự tính, trong 2 quý cuối năm, cán cân thanh toán có thể thặng dư mỗi quý khoảng 1 tỷ USD với điều kiện yếu tố FDI không biến động bất thường. Bởi vậy, những thán 9 – 11 và 12, cần theo dõi đặc biệt để tránh căng thẳng với thị trường ngoại hối.
Đến cuối tháng 6/2018 khối lượng tín phiếu Ngân hàng Nhà nước đạt 150.999 tỷ VND. Điều này giúp Kho bạc phát hành thành công trái phiếu Chính phủ, thị trường ngoại hối diễn biến ổn định; đồng thời, đảm bảo trung hoà hợp lý lượng tiền VND (PGS.TS Nguyễn Đức Trung, Phó Hiệu trưởng trường Đại học Ngân hàng Tp. Hồ Chí Minh). |
(VNF) - Dự án nhà ở xã hội NO1 thộc Khu đô thị mới Hạ Đình, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân và xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.