Mưa xối xả trở lại, đường phố Đà Nẵng ngập sâu từ mờ sớm
(VNF) - Mưa lớn kéo dài trong nhiều giờ đồng hồ khiến khu vực trung tâm TP. Đà Nẵng ngập sâu, người dân đi làm đầu buổi sáng gặp nhiều khó khăn.

Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước yêu cầu tái cơ cấu mạnh mẽ và thích ứng với những biến động toàn cầu ngày càng nhanh, vai trò của Quốc hội trong kiến tạo thể chế và hoàn thiện khung pháp lý trở nên đặc biệt quan trọng.
Từ việc rà soát, sửa đổi các đạo luật nền tảng như Luật Đất đai, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Doanh nghiệp..., đến việc đổi mới tư duy lập pháp theo hướng thúc đẩy sáng tạo và hội nhập, Quốc hội đang từng bước tháo gỡ những điểm nghẽn thể chế - vốn là nút thắt lớn nhất cản trở dòng chảy phát triển.
Để phản ánh vai trò tiên phong của Quốc hội trong cải cách thể chế, kiến tạo môi trường pháp lý minh bạch, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và khơi dậy niềm tin phát triển.
Nhân dịp kỷ niệm 80 năm Quốc hội Việt Nam, Tạp chí Đầu tư Tài chính -VietnamFinance có cuộc trao đổi với TS Nguyễn Bích Lâm, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê.

- Thưa ông, từ góc nhìn của một chuyên gia kinh tế, đâu là những “điểm nghẽn thể chế” lớn nhất đang cản trở dòng chảy của nền kinh tế hiện nay, đặc biệt trong môi trường đầu tư, kinh doanh?
TS Nguyễn Bích Lâm: Khi nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng “ấn tượng”, niềm tin được cải thiện thì điều mà cộng đồng doanh nghiệp, giới chuyên gia quan tâm nhất là khả năng tháo gỡ những nút thắt đang cản trở dòng chảy vốn, doanh nghiệp và sáng tạo.
Qua theo dõi thực tế hoạt động của nền kinh tế, có thể khái quát 5 điểm nghẽn thể chế lớn đang cản trở môi trường đầu tư, kinh doanh của Việt Nam hiện nay:
Một là, thể chế mở nhưng thực thi hẹp. Khung pháp lý của Việt Nam ngày càng tiệm cận thông lệ quốc tế, nhưng quyền tự chủ và tính minh bạch trong thực thi lại hạn chế. Quy định "mở" nhưng cơ quan thực thi lại sợ sai, dẫn đến tình trạng "trên trải thảm, dưới rải đinh", nhà đầu tư khó triển khai dự án, thủ tục kéo dài.
Đây là rào cản vô hình lớn nhất, doanh nghiệp không vướng luật mà vướng vào cách hiểu luật. Điều này làm nghẽn quá trình triển khai sản xuất kinh doanh. Tạo ra dị biệt của nền kinh tế: doanh nghiệp không muốn mở rộng quy mô; nền kinh tế khát vốn, có vốn mà không sử dụng được vốn. Tín dụng và vốn đầu tư công dồi dào nhưng giải ngân chậm, tắc nghẽn ở cơ chế quản lý, sợ trách nhiệm của bộ máy, khiến nguồn vốn xã hội bị tắc không đi vào sản xuất.
Hai là, sự chồng chéo, thiếu đồng bộ trong pháp luật kinh tế. Mặc dù đã có hàng trăm đạo luật về kinh tế, nhưng nhiều luật mâu thuẫn, giao thoa, đặc biệt giữa Luật Đất đai, Luật Đầu tư, Luật Xây dựng, Luật Quy hoạch. Trong thực tế đó nhà đầu tư phải xin ý kiến nhiều tầng nấc, dẫn đến chi phí hành chính cao, thời gian chuẩn bị dự án kéo dài. Đây là biểu hiện của "tư duy cục bộ trong làm luật", khi mỗi ngành bảo vệ quyền lực quản lý của mình, thay vì thiết kế luật thuận lợi chung cho nền kinh tế. Điều này làm giảm tốc độ đầu tư khiến cơ hội thị trường bị lỡ nhịp.
Ba là, tình trạng hành chính hóa quá trình điều hành kinh tế. Không ít chính sách vẫn mang tính mệnh lệnh hành chính thay vì theo tín hiệu và sự điều tiết của thị trường, chẳng hạn như: can thiệp giá, đặt ra hạn ngạch, áp đặt chỉ tiêu tăng trưởng, thậm chí "xin - cho" trong tín dụng và đầu tư.
Việc điều hành chưa dựa vào dữ liệu và tín hiệu thị trường khiến chính sách phản ứng chậm, gây độ trễ và kém hiệu quả của các chính sách và giải pháp, chẳng hạn giảm lãi suất nhưng tín dụng không chảy vào nền kinh tế. Điều này làm méo mó thị trường, khiến nguồn lực không phân bổ theo nguyên tắc hiệu quả, mà theo quan hệ hành chính. Chuyên gia WB từng nhận xét: "Việt Nam cần chuyển từ Chính phủ điều hành sang chính phủ kiến tạo và dự báo”.
Bốn là, thể chế tài chính, tín dụng chậm hiện đại hóa. Thị trường vốn còn thiếu chiều sâu, doanh nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào tín dụng ngân hàng. Khung pháp lý cho tài chính xanh, fintech và trái phiếu doanh nghiệp tuy đã có nhưng thực thi chậm, khiến doanh nghiệp khó tiếp cận nguồn vốn dài hạn. Cơ chế bảo vệ nhà đầu tư còn yếu, thông tin tài chính chưa minh bạch, hạn chế dòng vốn ngoại và vốn tư nhân lớn. Điều này khiến nền kinh tế vẫn thiếu nguồn vốn dài hạn, đồng thời cản trở chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ vốn và lao động sang đổi mới và sáng tạo.
Năm là, độ trễ trong cải cách bộ máy và trách nhiệm công vụ. Tinh giản biên chế và phân cấp quản lý chưa đi cùng với trao quyền và chịu trách nhiệm rõ ràng. Cán bộ sợ sai, né tránh, không ai chịu trách nhiệm. Khu vực công chưa gắn đánh giá kết quả với hiệu quả điều hành, khiến cải cách thể chế không lan toả xuống cấp thực thi. Thực tế này làm giảm hiệu năng toàn bộ hệ thống, doanh nghiệp và nhà đầu tư mất niềm vào tính tiên liệu của chính sách.
Tóm lại, vấn đề lớn nhất của Việt Nam hiện nay không còn nằm ở thiếu vốn hay thiếu ý tưởng, mà là thiếu một thể chế bao trùm, đủ minh bạch, tiên liệu được và dám chịu trách nhiệm để dòng vốn, dòng ý tưởng và dòng sáng tạo được lưu thông. Nút thắt thể chế là nút thắt của niềm tin.

- Nhưng không thể không thừa nhận là tiến trình hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam những năm gần đây đã có nhiều chuyển biến tích cực, thể hiện rõ qua việc sửa đổi, bổ sung hàng loạt đạo luật quan trọng như Luật Đất đai, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Các tổ chức tín dụng, hay mới nhất là Luật Thương mại điện tử (sửa đổi)… Vậy vì sao dù đã nỗ lực nhưng thể chế vẫn là nút thắt lớn nhất, thưa ông?
TS Nguyễn Bích Lâm: Trong bối cảnh nền kinh tế cần cú hích mới từ thể chế, vai trò của Quốc hội nổi lên như một trụ cột then chốt trong việc rà soát, sửa đổi và ban hành hàng loạt đạo luật kinh tế nền tảng. Từ Luật Đất đai, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu đến Luật Doanh nghiệp và Luật Tài chính công, Quốc hội đã thể hiện rõ tinh thần chủ động lập pháp, không chỉ “thông qua” mà thực sự “kiến tạo” môi trường kinh doanh thuận lợi, minh bạch hơn.
Quá trình lập pháp gần đây của Quốc hội cho thấy một sự dịch chuyển tư duy quan trọng từ điều hành hành chính sang điều hành bằng pháp quyền và cơ chế thị trường. Việc sửa đổi Luật Đất đai theo hướng định giá đất sát thị trường, đảm bảo quyền tiếp cận đất đai bình đẳng cho mọi chủ thể; hay việc điều chỉnh Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp để cắt giảm điều kiện kinh doanh, hỗ trợ đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp, đều là những bước đi cụ thể nhằm khơi thông các nguồn lực cho tăng trưởng.
Không dừng ở lập pháp, Quốc hội còn đảm nhận vai trò “trọng tài thể chế”, điều phối giữa ba trụ cột chính của nền kinh tế: Nhà nước, doanh nghiệp và xã hội. Các phiên chất vấn và giám sát gần đây cho thấy Quốc hội không ngần ngại đi thẳng vào các điểm nghẽn cốt lõi như chồng chéo pháp lý trong đầu tư công, ách tắc giải phóng mặt bằng, hay sự thiếu nhất quán giữa quy hoạch và chính sách thu hút đầu tư. Qua đó, Quốc hội góp phần chuyển đổi cách thức điều hành từ "xin - cho" sang “trách nhiệm, minh bạch”, bảo đảm tính ổn định và khả năng dự đoán của môi trường kinh doanh.
Điều đáng chú ý hơn cả là Quốc hội đã đưa hiệu quả thực thi luật trở thành thước đo quan trọng của năng lực quản trị quốc gia. Giám sát chuyên đề về thể chế phát triển vùng, hay cải cách thủ tục hành chính trong đầu tư, xây dựng, xuất nhập khẩu, đã giúp tháo gỡ nhiều nút thắt tồn tại nhiều năm. Những nỗ lực này đang dần đưa Quốc hội thành chủ thể chủ động trong kiến tạo thể chế, không chỉ làm luật mà còn bảo đảm luật đi vào cuộc sống, trở thành động lực thực sự của cải cách và tăng trưởng.
Nói cách khác, cú hích thể chế lớn nhất của năm 2025 đến từ việc nâng tầm vai trò của Quốc hội - người gác cổng nay trở thành người kiến tạo luật chơi mới cho nền kinh tế thị trường Việt Nam.
Tuy vậy, Quốc hội cần phát huy tối đa vai trò lập pháp và giám sát tối cao. Quốc hội phải thực sự là "người gác cổng thể chế", đồng thời dần tiến tới là “người tạo dựng thể chế”, bảo đảm luật và văn bản dưới luật thống nhất với Hiến pháp, phù hợp tinh thần cải cách, không để lọt quy định cài cắm lợi ích nhóm hay gây méo mó thị trường. Chức năng giám sát cần được phát huy từ khâu ban hành đến thực thi, xử lý kịp thời những trường hợp trì hoãn, né tránh hoặc làm sai lệch chủ trương. Quốc hội phải chủ động khởi xướng những cải cách luật pháp mang tính chiến lược, định hình hành lang phát triển dài hạn của đất nước. Khi Quốc hội chuyển từ vai trò kiểm soát sang kiến tạo, thể chế sẽ thực sự trở thành động lực cho tăng trưởng, thay vì là nút thắt cản trở.

- Nhiều ý kiến cho rằng, khoảng cách giữa luật và thực tiễn vẫn còn xa. Theo ông, vì sao luật “khó đi vào đời sống”? Vướng mắc nằm ở khâu thiết kế luật hay thực thi luật?
TS Nguyễn Bích Lâm: Dù Quốc hội đã có những bước tiến rõ nét trong hoạt động lập pháp và giám sát chính sách, tuy vậy khoảng cách giữa luật và thực tiễn đang là điểm nghẽn thể chế dai dẳng nhất hiện nay. Luật được thiết kế ngày càng đầy đủ, tiến bộ và tiệm cận thông lệ quốc tế, nhưng việc chuyển hóa tinh thần của luật thành hành động cụ thể vẫn còn nhiều trở ngại. Nói cách khác, luật của Việt Nam vẫn “đẹp trên giấy” hơn là “sống trong đời sống kinh tế”.
Theo tôi, nguyên nhân sâu xa bắt nguồn từ cả hai khâu: thiết kế luật và thực thi luật, trong đó đặc biệt nhấn mạnh ở khâu thứ hai. Ở giai đoạn thiết kế, tư duy quản lý để kiểm soát vẫn lấn át tư duy thiết kế để phát triển. Không ít văn bản pháp luật, dù hướng tới cải cách, vẫn bị “cài rào” bởi các quy định hành chính, điều kiện kinh doanh và cơ chế cấp phép phức tạp. Luật chưa thực sự xuất phát từ nhu cầu thị trường và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, mà còn mang nặng dấu ấn của cơ quan ban hành, dẫn tới hiện tượng một vấn đề nhiều luật điều chỉnh, gây chồng chéo, thiếu thống nhất.
Vướng mắc lớn hơn nằm ở khâu thực thi, nơi mà quyền lực hành chính không luôn đi cùng trách nhiệm giải trình. Luật có hiệu lực nhưng chậm được hướng dẫn thi hành; nhiều nghị định thông tư ban hành chậm khiến chính sách “tắc” ngay từ khi bắt đầu. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức sợ sai, sợ trách nhiệm, dẫn đến tình trạng trì hoãn, né tránh trong xử lý công việc. Cơ chế giám sát và đánh giá hiệu quả sau ban hành còn yếu, khiến Quốc hội và Chính phủ khó đo lường hiệu quả thực tế của từng đạo luật, cũng như không rõ ai phải chịu trách nhiệm khi chính sách đi chệch hướng.
Điểm nghẽn cốt lõi chính là khoảng trống trách nhiệm thể chế. Trong khi Quốc hội giữ vai trò ban hành, Chính phủ chịu trách nhiệm thi hành, thì không có một cơ chế chung buộc các bên cùng chịu trách nhiệm về kết quả cuối cùng của chính sách. Chính vì thế, không ít đạo luật “đẹp trên giấy” nhưng lại “khó sống” trong đời thực, vì thiếu người chịu trách nhiệm về hiệu quả vận hành của nó.
Cải cách thể chế vì vậy không thể dừng lại ở việc ban hành thêm luật, mà phải chuyển trọng tâm từ "làm luật" sang "thực thi luật", từ tư duy quản lý sang phục vụ phát triển. Khi luật được “hoà cùng hơi thở” của cuộc sống đó mới là lúc thể chế thực sự trở thành động lực cho tăng trưởng và niềm tin cho tương lai phát triển của đất nước.

- Từ thực tế doanh nghiệp và địa phương, ông thấy họ đang gặp phải những vướng mắc pháp lý cụ thể nào gây cản trở hoạt động sản xuất, kinh doanh và đầu tư công?
TS Nguyễn Bích Lâm: Một trong những điểm nghẽn được cộng đồng doanh nghiệp và chính quyền địa phương liên tục phản ánh trong những năm qua là vướng mắc pháp lý - nơi mà luật, nghị định, thông tư và cơ chế thực thi chưa ăn khớp với nhau, khiến dòng chảy đầu tư và sản xuất, kinh doanh bị cản trở đáng kể.
Hiện nay chúng ta không thiếu luật, nhưng đang thiếu sự thông suốt của luật. Các nút thắt pháp lý, tạo nên rào cản lớn nhất của năng lực hấp thụ chính sách thể hiện qua 4 góc độ sau:
Một là, chồng chéo, mâu thuẫn giữa các luật điều chỉnh cùng lĩnh vực. Đây là vướng mắc phổ biến và kéo dài nhiều năm qua. Cùng một hoạt động kinh tế, có khi phải tuân theo ba đến bốn đạo luật khác nhau: đất đai, đầu tư, xây dựng, môi trường, nhưng quy định lại thiếu thống nhất, thậm chí trái ngược nhau.
Một dự án đầu tư phải qua nhiều vòng thẩm định, phê duyệt, mỗi luật yêu cầu một bộ hồ sơ riêng, không ít địa phương thừa nhận mất từ một đến hai năm chỉ để hoàn tất thủ tục pháp lý ban đầu. Tình trạng này khiến doanh nghiệp tốn kém chi phí, còn chính quyền địa phương ngại ký vì sợ sai, dẫn đến đình trệ đầu tư.
Hai là, thủ tục hành chính rườm rà, thiếu đồng bộ giữa các cấp. Mặc dù tinh thần cải cách thủ tục hành chính đã được nhấn mạnh trong nhiều nghị quyết, trên thực tế, các quy trình, thủ tục hành chính vẫn phức tạp và chậm được số hóa. Hồ sơ điện tử vẫn song hành với hồ sơ giấy, "một cửa" nhưng vẫn có nhiều tầng nấc.
Trong đầu tư công, vướng mắc lớn không phải là thiếu vốn mà là "tắc cơ chế", đặc biệt ở khâu thẩm định giá, đấu thầu và điều chỉnh kế hoạch vốn. Tâm lý sợ sai, né trách nhiệm khiến tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công rất thấp, đến cuối quý III/2025 mới đạt trên 51% kế hoạch năm.
Ba là, phân cấp, phân quyền thiếu nhất quán. Mặc dù chủ trương đã giao quyền mạnh hơn cho địa phương, nhiều luật vẫn giữ thẩm quyền ở cấp Trung ương. Các dự án hạ tầng, khu công nghiệp hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng đất vẫn phải xin ý kiến nhiều cấp, kéo dài thời gian phê duyệt. Điều này tạo ra nghịch lý "trên mở - dưới tắc", địa phương muốn làm nhanh nhưng sợ vượt quyền, còn Trung ương muốn kiểm soát nhưng không đủ thông tin chi tiết. Cơ chế liên kết vùng, phối hợp giữa các địa phương cũng chưa rõ ràng, làm giảm hiệu quả của đầu tư công và hạ tầng chiến lược.
Bốn là, văn bản hướng dẫn dưới luật chậm, thiếu nhất quán. Ngay cả khi Quốc hội đã ban hành nhiều đạo luật mới, hệ thống nghị định và thông tư hướng dẫn vẫn chậm ban hành hoặc mâu thuẫn lẫn nhau. Một số quy định tiến bộ trong luật bị "siết lại" ở nghị định, khiến tinh thần cải cách bị triệt tiêu. Nhiều doanh nghiệp phải chờ 8-10 nghị định mới có thể triển khai dự án, làm giảm đáng kế tính hiệu lực của chính sách.
Rào cản lớn nhất của nền kinh tế hiện nay không phải là thiếu quy định pháp lý, mà là thiếu sự vận hành thông suốt, nhất quán và có trách nhiệm của hệ thống thực thi pháp luật. Luật nhiều, nhưng chưa thông suốt.
Khi doanh nghiệp chưa yên tâm vào tính ổn định của luật, địa phương còn lúng túng sợ sai, còn hướng dẫn chồng chéo, thì mọi nỗ lực cải cách thể chế vẫn có nguy cơ dừng lại trên giấy.


- Theo ông, đâu là yếu tố khiến việc sửa luật thường mất nhiều thời gian và đôi khi chưa theo kịp biến động của kinh tế thị trường?
TS Nguyễn Bích Lâm: Cải cách thể chế và sửa đổi luật pháp là "trục xương sống" của đổi mới kinh tế, nhưng trong thực tế, chu kỳ lập pháp của Việt Nam thường chậm hơn nhiều so với nhịp biến động của thị trường. Khi thực tế đã chuyển động, luật vẫn đang trong quá trình lấy ý kiến, rà soát, hoặc chờ hướng dẫn. Có nhiều nguyên nhân đan xen, theo tôi có thể gộp thành năm nhóm cốt lõi sau:
Một là, tư duy quản lý còn nặng tính bao cấp và hành chính hóa.
Dù đã chuyển đổi sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tư duy quản lý "xin - cho", tiền kiểm vẫn phổ biến trong quá trình xây dựng pháp luật. Không ít đạo luật được thiết kế với mục tiêu "quản chặt" hơn là "mở đường", dẫn đến quy định vừa thiếu linh hoạt, vừa chậm thích ứng với mô hình kinh doanh mới, nhất là trong các lĩnh vực công nghệ, tài chính số, kinh tế xanh, kinh tế chia sẻ.
Hai là, quy trình lập pháp còn rườm rà, nhiều tầng nấc. Một dự án luật phải qua rất nhiều bước: tổng kết thực tiễn, lấy ý kiến các bộ, ngành, phản biện của chuyên gia, thẩm tra của Ủy ban Quốc hội, rồi mới đến thảo luận, thông qua.
Quy trình này đảm bảo chặt chẽ về mặt pháp lý, nhưng lại thiếu cơ chế "rút gọn" cho các vấn đề cấp bách. Vì vậy, một đạo luật thường mất từ 3- 5 năm để hình thành, đến khi ban hành thì bối cảnh thực tế đã thay đổi. Thậm chí, có lĩnh vực phát triển quá nhanh như: Thương mại điện tử, trí tuệ nhân tạo, blockchain, thì luật luôn "đi sau một thế hệ”.
Ba là, thiếu cơ chế phản hồi nhanh từ thực tiễn và cộng đồng doanh nghiệp. Nhiều luật được xây dựng từ góc nhìn của cơ quan quản lý, trong khi tiếng nói từ doanh nghiệp, địa phương, hoặc các hiệp hội nghề nghiệp chưa được phản hồi kịp thời và có trọng lượng. Chính vì thiếu "dữ liệu sống" từ thực tế, nên khi luật được áp dụng, mới bộc lộ những khoảng trống hoặc bất cập. Nhưng việc sửa đổi, bổ sung lại phải qua một quy trình dài tương tự, khiến độ trễ chính sách kéo dài.
Bốn là, thiếu sự phối hợp và thống nhất thực chất giữa các bộ, ngành. Tình trạng "mạnh ai nấy quản" trong xây dựng pháp luật vẫn khá phổ biến. Một đạo luật thường liên quan đến nhiều bộ quản lý chuyên ngành, nhưng thiếu cơ chế điều phối đủ mạnh, dẫn đến sự giằng co thẩm quyền giữa các cơ quan, mỗi nơi muốn giữ phần quyền lợi, thẩm quyền của mình. Hệ quả là văn bản pháp luật vừa dài, vừa chồng chéo, mất nhiều thời gian để thống nhất và thường "làm mềm" đi tinh thần cải cách ban đầu.
Năm là, thiếu năng lực và dữ liệu trong đánh giá tác động chính sách. Khâu đánh giá tác động kinh tế - xã hội của luật trước và sau khi ban hành còn yếu. Nhiều cơ quan vẫn dựa vào kinh nghiệm hoặc ý kiến chuyên gia, chưa có hệ thống dữ liệu định lượng đủ tin cậy để đo lường tác động. Do đó, việc sửa luật thường mang tính "chữa cháy", chứ chưa thật sự dựa trên phân tích chi phí, lợi ích và tính toán dài hạn.
Có thể nói, luật chậm không chỉ vì quy trình nhiều tầng, mà vì tư duy lập pháp chưa linh hoạt, chưa bám sát sự sôi động của nền kinh tế. Khi nền kinh tế chuyển động từng ngày, nhưng bộ máy làm luật vẫn vận hành theo "chu kỳ nhiệm kỳ", thì khoảng cách giữa quy định và thực tiễn tất yếu sẽ ngày càng lớn.
Để khắc phục, cần một cơ chế cập nhật linh hoạt, cho phép sửa đổi cục bộ, thí điểm và đánh giá nhanh, thay vì phải chờ một vòng lập pháp kéo dài.

- Trong bối cảnh chuyển đổi số, dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo ngày càng chi phối chính sách, Quốc hội nên đổi mới cách thức xây dựng, giám sát và đánh giá tác động luật như thế nào để bảo đảm tính linh hoạt và thực tiễn?
TS Nguyễn Bích Lâm: Khi nền kinh tế chuyển mình mạnh mẽ theo hướng số hóa, mọi quyết sách kinh tế - xã hội đều cần được minh chứng và hỗ trợ bởi dữ liệu và công nghệ. Trong bối cảnh ấy, Quốc hội - Cơ quan lập pháp không thể tiếp tục xây dựng luật theo lối truyền thống, dựa chủ yếu vào báo cáo định tính và tổng kết kinh nghiệm.
Thời đại của dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo đang đặt ra yêu cầu mới, quá trình lập pháp phải nhanh nhạy, có khả năng dự báo, điều chỉnh linh hoạt theo thực tiễn, chứ không chỉ phản ứng sau khi vấn đề đã phát sinh và tồn tại khá dài.
Theo tôi nghĩ, trước hết xây dựng luật phải dựa trên dữ liệu và bằng chứng. Quốc hội cần chuyển mạnh từ làm luật theo kinh nghiệm sang làm luật dựa trên bằng chứng và dữ liệu thực tiễn. Điều này đòi hỏi hình thành hệ thống cơ sở dữ liệu chính sách quốc gia, liên thông giữa các bộ, ngành, địa phương và cộng đồng doanh nghiệp.
Khi dữ liệu kinh tế, xã hội, dân cư, đầu tư... được cập nhật liên tục, Quốc hội sẽ có nền tảng để dự báo xu hướng, nhận diện rủi ro và lượng hóa tác động của từng đạo luật.
Đây cũng là cách giúp luật đi trước một bước và đồng hành cùng thực tiễn.
Cùng với đó ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong giám sát và phân tích chính sách. Trí tuệ nhân tạo có thể trở thành "trợ lý lập pháp" đắc lực cho các ủy ban của Quốc hội. Trí tuệ nhân tạo có khả năng phân tích hàng triệu trang văn bản pháp luật, rà soát sự chồng chéo, trùng lặp, hoặc mâu thuẫn giữa các điều khoản trong thời gian ngắn - điều mà con người phải mất rất nhiều thời gian và công sức.
Sử dụng công nghệ xử lý ngôn ngữ tự nhiên (NLP) có thể tự động tổng hợp phản hồi của doanh nghiệp và người dân, từ đó giúp Quốc hội nhận diện sớm các "điểm nghẽn chính sách" trong thực tiễn để điều chỉnh kịp thời.
Đặc biệt, Quốc hội cần thiết lập cơ chế "phản ứng nhanh" trong lập pháp. Nền kinh tế vận hành theo chu kỳ thị trường đòi hỏi luật pháp phải linh hoạt và có khả năng cập nhật thường xuyên. Thiết nghĩ, Quốc hội có thể nghiên cứu cơ chế sửa đổi luật theo mô-đun hoặc theo gói, thay vì phải chờ một chu kỳ lập pháp kéo dài 3-5 năm. Đồng thời, cần thí điểm mô hình "đánh giá chính sách thời gian thực", cho phép điều chỉnh một số quy định khi phát sinh bất cập mà không cần chờ sửa luật toàn diện.
Tăng cường giám sát thực thi luật bằng công nghệ số. Việc giám sát luật hiện nay chủ yếu dựa vào báo cáo của bộ, ngành, nên độ trễ và tính khách quan còn hạn chế.
Nếu Quốc hội ứng dụng hệ thống giám sát số hóa, kết nối dữ liệu hành chính công và phản ánh trực tuyến từ doanh nghiệp, thì có thể theo dõi mức độ tuân thủ, hiệu quả và chi phí thực thi của từng đạo luật theo thời gian thực. Đây sẽ là bước tiến từ "giám sát hậu kiểm" sang "giám sát thông minh và chủ động".
Đổi mới thứ năm đó là, mở rộng tương tác xã hội và tham vấn công khai. Công nghệ số cho phép mở rộng không gian tham vấn công chúng trong quá trình xây dựng luật. Quốc hội có thể triển khai cổng tham vấn chính sách điện tử, nơi người dân, doanh nghiệp, viện nghiên cứu và hiệp hội nghề nghiệp có thể góp ý trực tuyến. Dữ liệu góp ý được trí tuệ nhân tạo phân loại, tổng hợp, báo cáo trực tiếp cho cơ quan thẩm tra, giúp quá trình lập pháp dân chủ hơn, sát thực tiễn hơn.
Khi lập pháp dựa trên dữ liệu, giám sát dựa trên công nghệ và đánh giá dựa trên tác động thực, luật pháp mới có cuộc sống thực, linh hoạt và đồng hành với nhịp vận động của nền kinh tế số.
Trong thời đại kỹ thuật số và trí tuệ nhân tạo, Quốc hội không chỉ là cơ quan ban hành luật, mà cần trở thành “kiến trúc sư của hệ sinh thái dữ liệu chính sách quốc gia”.
- Từ kinh nghiệm điều hành ngành Thống kê, ông nhìn nhận ra sao về việc Quốc hội cần sử dụng thông tin thống kê và phản hồi thực tế như một công cụ để đánh giá hiệu quả chính sách, thay vì chỉ dựa trên báo cáo hành chính?
TS Nguyễn Bích Lâm: Từ thực tiễn điều hành ngành Thống kê tôi nhận thức rõ luật và chính sách chỉ thực sự phù hợp và hiệu quả khi được xây dựng và ban hành dựa vào dữ liệu chuẩn xác, cập nhật và phản ánh đúng hơi thở của đời sống kinh tế - xã hội.
Trong bối cảnh nền kinh tế vận hành nhanh, mô hình sản xuất, kinh doanh biến đổi liên tục, Quốc hội nếu chỉ dựa vào báo cáo hành chính từ các bộ, ngành thì khó tránh khỏi độ trễ, tính khái quát và khoảng cách với thực tiễn. Do đó, đã đến lúc Quốc hội cần xem thông tin thống kê và phản hồi thực tiễn như một công cụ chiến lược trong việc xây dựng, giám sát và đánh giá tác động của chính sách, không chỉ là nguồn tham thông tin khảo phụ trợ. Thông tin thống kê phải trở thành nền tảng khoa học cho hoạt động lập pháp và giám sát chính sách của Quốc hội. Để áp dụng nguyên tắc này, Quốc hội và Chính phủ cần thực hiện một số nội dung sau:
Một là, thông tin thống kê phải trở thành "ngôn ngữ chung" của hoạt động lập pháp. Một hệ thống thống kê quốc gia hiện đại, với dữ liệu kinh tế - xã hội được cập nhật liên tục, sẽ giúp Quốc hội có căn cứ định lượng rõ ràng khi thẩm tra, sửa đổi và ban hành luật. Chẳng hạn, khi xem xét sửa Luật Đất đai hay Luật Doanh nghiệp, số liệu thống kê về diện tích sử dụng, hiệu suất đầu tư, tỷ lệ doanh nghiệp giải thể hoặc rút lui khỏi thị trường chính là những "bằng chứng sống" để lượng hóa tác động chính sách. Đó là sự chuyển đổi để làm luật dựa trên bằng chứng - điều các nền lập pháp hiện đại đã áp dụng nhiều năm.
Hai là, thiết lập cơ chế chia sẻ thông tin thống kê giữa Quốc hội và Chính phủ. Quốc hội cần có quyền truy cập trực tiếp vào các cơ sở dữ liệu thống kê quốc gia, đặc biệt là chuỗi dữ liệu theo thời gian về đầu tư công, thị trường lao động, sản xuất công nghiệp, xuất nhập khẩu, thu chi ngân sách…
Hiện nay, phần lớn thông tin mà Quốc hội nhận được đi qua các báo cáo tổng hợp hành chính, khiến dữ liệu bị xử lý nhiều tầng, giảm tính khách quan. Nếu có cơ chế kết nối dữ liệu mở, Quốc hội có thể phân tích độc lập, phát hiện sớm xu hướng rủi ro, qua đó giám sát hiệu quả hơn việc thực thi luật và nghị quyết.
Ba là, gắn thông tin thống kê với phản hồi thực tiễn từ doanh nghiệp và người dân. Thông tin thống kê phần lớn chỉ phản ánh định lượng trong khi phản hồi xã hội phản ánh chất lượng của chính sách. Vì vậy, Quốc hội nên xây dựng cơ chế song hành giữa dữ liệu thống kê và dữ liệu phản hồi, thu thập định kỳ, có hệ thống ý kiến của doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề, người dân qua các kênh số hóa.
Sử dụng trí tuệ nhân tạo để tổng hợp, phân tích cảm xúc và tần suất phản ánh, lượng hóa mức độ hài lòng, chi phí tuân thủ hay tác động tiêu cực của các chính sách. Khi đó, Quốc hội không chỉ giám sát "trên giấy", mà giám sát ngay trong dòng chảy của đời sống kinh tế.
Bốn là, đổi mới phương thức đánh giá hiệu quả chính sách. Thay vì chỉ dựa vào các chỉ tiêu hành chính như số văn bản được ban hành, tỷ lệ hoàn thành kế hoạch..., Quốc hội cần sử dụng chỉ số thống kê về hiệu quả và tác động thực như: mức tăng năng suất lao động, tỷ lệ đầu tư tư nhân, năng lực cạnh tranh địa phương, chỉ số niềm tin doanh nghiệp..., làm thước đo của chính sách, giúp nhận diện liệu một đạo luật có thực sự tạo động lực tăng trưởng và niềm tin xã hội hay không.
Trong kỷ nguyên số và công nghệ, dữ liệu phải trở thành "nền tảng quyền lực mềm" của Quốc hội. Nếu coi Quốc hội là trung tâm của hoạt động lập pháp, thì thông tin thống kê chính là "nguồn năng lượng" giúp Quốc hội giám sát và có quyết sách dựa trên khoa học.
Khi Quốc hội nắm được dòng dữ liệu khách quan và phản hồi trực tiếp từ thực tiễn, mọi đạo luật sẽ gần hơn với cuộc sống, mọi chính sách sẽ đi đúng với nhịp phát triển của nền kinh tế thị trường.
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang chuyển mạnh sang mô hình quản trị dựa trên dữ liệu, thông tin thống kê khách quan và kịp thời trở thành "mạch máu thông tin" cho hoạt động lập pháp, hoạch định và điều hành chính sách. Không có dữ liệu chuẩn xác Quốc hội khó đánh giá được hiệu quả thi hành luật; Chính phủ khó điều hành linh hoạt; cộng đồng doanh nghiệp và người dân cũng khó dự báo, định hướng sản xuất và đầu tư.
Bởi vậy, yêu cầu đặt ra với ngành Thống kê và hệ thống dữ liệu quốc gia trong giai đoạn mới phải đảm bảo tính chuẩn xác, tính độc lập, khách quan của dữ liệu. Phải đặt liêm chính lên trên thành tích, đặt sự thật lên trên chỉ tiêu để có được dữ liệu thống kê khách quan. Thống kê phải được tách khỏi mọi can thiệp hành chính hay bệnh thành tích, bảo đảm phản ánh trung thực thực trạng tình hình kinh tế- xã hội.
Dữ liệu thống kê phải trở thành hệ quy chiếu tin cậy để Quốc hội xây dựng luật sát thực tiễn hơn, Chính phủ điều hành linh hoạt hơn, nền kinh tế vận hành hiệu quả hơn. Quốc hội cần tăng quyền giám sát đối với công tác thống kê, yêu cầu báo cáo định kỳ độc lập, đặc biệt trong các lĩnh vực nhậy cảm như tăng trưởng GDP, năng suất lao động, hiệu quả đầu tư công, thất nghiệp. Cán bộ làm thống kê sai lệch số liệu có hệ thống phải chịu trách nhiệm kỷ luật và trách nhiệm hình sự nếu gây hậu quả nghiêm trọng.

- Vậy, việc tháo gỡ điểm nghẽn thể chế sẽ tạo ra động lực như thế nào cho tăng trưởng, thưa ông?
TS Nguyễn Bích Lâm: Nền thể chế minh bạch là "động cơ vô hình" của tăng trưởng. Trong mọi giai đoạn phát triển, thể chế luôn là "hệ điều hành" của nền kinh tế. Khi hệ điều hành bị lỗi, các chính sách dù đúng vẫn khó phát huy tác dụng; ngược lại, khi thể chế thông suốt sẽ trở thành chất xúc tác mạnh mẽ để phát huy mọi nguồn lực cho tăng trưởng và sáng tạo.
Khi điểm nghẽn về thể chế được tháo gỡ, nền kinh tế không chỉ phát triển nhanh hơn mà còn phát triển đúng hướng hơn.
Trong mọi giai đoạn phát triển, thể chế luôn là "hệ điều hành" của nền kinh tế nên việc tháo gỡ các điểm nghẽn thể chế không chỉ nhằm giảm bớt thủ tục hành chính hay khơi thông các rào cản pháp lý, mà sâu xa hơn là khơi thông niềm tin, khơi dậy tinh thần sáng tạo và tạo sức bật mới cho toàn nền kinh tế.
Mỗi thủ tục được đơn giản hóa là một chi phí xã hội được tiết kiệm; mỗi quy định được sửa đúng, sửa trúng là một dòng vốn và một cơ hội phát triển được giải phóng.
Khi thể chế vận hành minh bạch, quyền tài sản và quyền kinh doanh được bảo đảm, doanh nghiệp sẽ mạnh dạn đầu tư, người dân yên tâm sản xuất, nhà đầu tư quốc tế thêm tin tưởng đồng hành. Tác động đó không chỉ tức thời mà còn lâu dài, bởi một thể chế tốt sẽ sinh ra năng suất, còn một thể chế yếu sẽ làm triệt tiêu động lực.
Tháo gỡ điểm nghẽn thể chế sẽ mở ra cơ hội, tạo tác động tích cực tức thời qua việc khơi thông nguồn lực và giảm chi phí tuân thủ; tác động trung hạn sẽ làm tăng năng suất và tái cơ cấu nền kinh tế; tác động dài hạn qua việc tạo dựng niềm tin và nền tảng phát triển bền vững. Niềm tin này lan tỏa từ nhà đầu tư đến người tiêu dùng, từ doanh nghiệp tư nhân đến khu vực công.
Một nền kinh tế có niềm tin cao sẽ tự động kích thích đầu tư dài hạn, đổi mới sáng tạo và tích tụ nguồn vốn xã hội, giúp duy trì tốc độ tăng trưởng cao mà không phải đánh đổi bằng rủi ro vĩ mô.
Trong suốt hàng thập kỷ qua đã minh chứng một thực tế, không ít chính sách đúng đắn bị "nghẽn" vì thể chế chưa thông, khiến hiệu quả thực thi bị triệt tiêu. Việc cải cách thể chế - đặc biệt là các luật về đất đai, đầu tư, đấu thầu, doanh nghiệp, ngân sách và tài chính công sẽ tạo ra hiệu ứng cộng hưởng, giúp các chính sách điều hành của Chính phủ thấm sâu và phát huy tác dụng nhanh hơn. Đây là cơ sở để chuyển nền kinh tế từ "tăng trưởng nhờ chính sách" sang "tăng trưởng nhờ thể chế". Khi đó thể chế từ chỗ là "điểm nghẽn" trở thành đòn bẩy cho phát triển.
Khi điểm nghẽn thể chế được tháo gỡ, niềm tin được khôi phục, môi trường kinh doanh minh bạch, luật pháp thực sự trở thành "bệ đỡ" cho sáng tạo, thì thể chế sẽ không còn là lực cản, mà trở thành đầu kéo cho tăng trưởng. Đây chính là bước chuyển từ điều hành nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính sang điều hành bằng luật lệ và niềm tin - yếu tố cốt lõi của mọi nền kinh tế thị trường hiện đại. Chỉ khi thể chế thông suốt, chính sách mới có hiệu lực.

-Trong tầm nhìn 2045 – khi Việt Nam hướng tới quốc gia hùng cường, thể chế nào cần được ưu tiên cải cách đầu tiên để mở khóa tăng trưởng bền vững? Và Quốc hội cần làm gì để hiện thực hoá mục tiêu hùng cường, thịnh vượng, thưa ông?
TS Nguyễn Bích Lâm: Cốt lõi của tầm nhìn Việt Nam 2045, không chỉ là chuyện tăng trưởng, mà là xây dựng một nền kinh tế có năng lực cạnh tranh, có niềm tin và nền tảng thể chế vững chắc.
Trong hành trình hướng tới mục tiêu Việt Nam trở thành quốc gia hùng cường, thịnh vượng vào năm 2045, Quốc hội giữ vai trò then chốt trong kiến tạo thể chế bao trùm phát triển. Với cải cách thể chế kinh tế thị trường hiện đại, đầy đủ và hội nhập cần được đặt lên hàng đầu, bởi đây chính là nền móng để các chính sách khác vận hành trơn tru.
Ba lĩnh vực cần ưu tiên cải cách trước tiên gồm: thể chế về quyền tài sản và quyền kinh doanh; thể chế cạnh tranh và phân bổ nguồn lực; thể chế tài chính, ngân sách, đất đai. Khi ba trụ cột này được củng cố, nguồn lực xã hội sẽ được giải phóng, tạo động lực tăng trưởng bền vững và bao trùm.
Quốc hội trong tầm nhìn mới không chỉ là cơ quan lập pháp, mà phải là "kiến trúc sư của luật chơi phát triển". Đây là quá trình đổi mới tư duy lập pháp từ làm luật để quản lý sang làm luật để phát triển; ứng dụng dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo trong đánh giá tác động chính sách; đồng thời tăng cường giám sát độ thấm của pháp luật trong đời sống kinh tế - xã hội.
Mỗi đạo luật được ban hành phải trở thành một đòn bẩy đổi mới sáng tạo, chứ không chỉ là văn bản quản lý hành chính.
Trải qua gần bốn thập kỷ đổi mới, chúng ta nhận thức sâu sắc cải cách thể chế tạo nền tảng của niềm tin phát triển. Một quốc gia hùng cường không chỉ mạnh về quy mô kinh tế, mà trước hết phải mạnh về niềm tin thể chế - niềm tin rằng luật pháp bảo vệ cái đúng, khuyến khích cái mới và trừng trị cái sai.
Khi thể chế ổn định, dự đoán được và nhất quán trong thực thi, niềm tin sẽ trở thành nguồn vốn xã hội quý giá nhất, là chất keo gắn kết toàn dân trong hành trình phát triển.
Để hiện thực hóa khát vọng 2045, Quốc hội và Chính phủ cần đồng hành như hai động lực cùng thúc đẩy thể chế kiến tạo phát triển.
Nếu Quốc hội là nơi xây dựng "luật chơi mới" công bằng, minh bạch, khuyến khích sáng tạo, thì Chính phủ chính là người tổ chức cuộc chơi, bằng năng lực điều hành, kỷ luật thực thi và tinh thần dám chịu trách nhiệm.
Nền thể chế chỉ thực sự sống động khi các luật được thấm vào thực tiễn và chính sách được nuôi dưỡng bằng niềm tin của người dân và doanh nghiệp. Chính niềm tin đó, chứ không phải vốn hay tài nguyên mới là nguồn lực phát triển bền vững nhất của quốc gia.
Khi Quốc hội vững về tầm nhìn, Chính phủ mạnh về hành động, xã hội đồng lòng kiến tạo, Việt Nam hoàn toàn có thể bước vững vàng trên hành trình trở thành quốc gia hùng cường, thịnh vượng vào năm 2045.
Trân trọng cảm ơn ông!
(VNF) - Mưa lớn kéo dài trong nhiều giờ đồng hồ khiến khu vực trung tâm TP. Đà Nẵng ngập sâu, người dân đi làm đầu buổi sáng gặp nhiều khó khăn.
(VNF) - Ông Phạm Đình Đoàn, Chủ tịch HĐQT Phú Thái Holdings, nhấn mạnh Nghị quyết 68 đã mở ra một thời cơ mới cho doanh nghiệp tư nhân Việt Nam phát triển, đặc biệt với các doanh nghiệp nhỏ.
(VNF) - Đánh giá thế giới không còn nhìn nhận Việt Nam là một nước chỉ xuất khẩu được nông sản hay các sản phẩm giá trị thấp, Chủ tịch CT Group cho rằng Việt Nam hiện nay đã 'bằng vai phải lứa' với thế giới.
(VNF) - Kỷ niệm 80 năm Quốc hội Việt Nam, TS. Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, nhấn mạnh: Quốc hội đã tạo dựng được nhiều dấu ấn lịch sử trong lập pháp, giám sát và quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước. Nhưng để đáp ứng yêu cầu thời đại mới, Quốc hội cần chuyển mình thành “Quốc hội kiến tạo, chuyên nghiệp và gần dân” – một mô hình nghị viện hiện đại, minh bạch và gắn bó mật thiết với đời sống nhân dân.
(VNF) - Trong bối cảnh đô thị hóa nhanh, chất thải rắn xây dựng (CTRXD) đang trở thành áp lực lớn với môi trường và hệ thống hạ tầng đô thị. Dự án SATREPS do Việt Nam phối hợp với Nhật Bản triển khai đã thử nghiệm nhiều giải pháp xử lý ngay tại công trường, mở ra hướng tiếp cận mới cho tái chế và quản lý CTRXD theo mô hình kinh tế tuần hoàn.
(VNF) - Yêu cầu tự do hóa thị trường ngoại hối mà MSCI đặt ra đối với thị trường chứng khoán Việt Nam không hề “quá tầm” nếu nhìn nhận từ tư duy kinh tế thị trường. Trong bối cảnh nhà đầu tư toàn cầu đặt trọng tâm vào khả năng chuyển đổi vốn và đo lường rủi ro, các nhà quản lý cần mạnh dạn vượt qua tâm lý thận trọng quá mức trong điều hành.
(VNF) - Dù tọa độ của thị trường chứng khoán Việt Nam trên bản đồ MSCI đã có những dịch chuyển nhất định, vị trí hiện tại vẫn còn khoảng cách đáng kể với “khu vực” thị trường mới nổi. Điều Việt Nam cần lúc này là không chỉ là nỗ lực, mà là xác định đúng hướng đi – cải thiện trúng tiêu chí quan trọng nhất.
(VNF) - Tận dụng lợi thế vị trí địa lý là cửa ngõ ra biển của trục hành lang Đông Tây, THILOGI đầu tư phát triển hệ thống logistics trọn gói, đồng bộ, hình thành chuỗi vận chuyển khép kín, kết nối thông suốt hàng hóa từ nội địa Lào ra thị trường quốc tế, góp phần thúc đẩy kinh tế khu vực biên giới.
(VNF) - Với triết lý kiến tạo đô thị gắn với văn hóa bản địa và phong cách sống hiện đại, Blanca City thiết lập một hệ tiện ích độc đáo, nơi cư dân tận hưởng trọn vẹn trải nghiệm đa chiều: sống - nghỉ dưỡng - giải trí - kết nối - truyền cảm hứng trong một điểm đến.
(VNF) - Theo ông Ko Tae Yeon - Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam (KOCHAM), muốn tham gia sân chơi toàn cầu thì không thể trông chờ vào ưu ái. Doanh nghiệp phải tự thay đổi, chủ động học hỏi và đầu tư đúng hướng. Không gì là không thể, nếu chúng ta thực sự bắt tay làm.
(VNF) - Trong hành trình 10 năm qua, tài sản lớn nhất mà VietnamFinance có được là sự tin yêu của cộng đồng. Đó không chỉ là những bạn đọc, là đối tác, khách hàng mà hơn hết đó là những người đồng hành và động lực để VietnamFinance tiếp tục vững tin trên con đường đã chọn. Kỷ niệm 10 năm của VietnamFinance thêm ý nghĩa khi có những lời sẻ chia của những bạn đồng hành.
(VNF) - Từ một món ăn chưa từng biết đến rõ ràng tại Việt Nam, Quốc Trường và các Co-founder đã đưa Sasin trở thành thương hiệu tiên phong, phát triển thành chuỗi cửa hàng hơn 100 chi nhánh với quy trình vận hành bài bản. Nhưng phía sau thành công ấy là cả một hành trình mà các Co-founder phải trải qua nhiều thử thách, cùng nhau “vấp ngã và đứng lên”.
(VNF) - Không chỉ là người truyền cảm hứng về không gian sống, Hà Linh - Người sáng lập cộng đồng Nghiện Nhà còn là một nhà đầu tư đầy kinh nghiệm trong nhiều lĩnh vực.
(VNF) - Khởi nguồn từ đam mê, trưởng thành trong thử thách, thương hiệu mỳ cay Sasin của Quốc Trường giờ đây không chỉ là một món ăn mà còn là dấu ấn trên thị trường F&B Việt Nam.
(VNF) - Đại sứ Đan Mạch Nicolai Prytz cho hay thông qua các chính sách pháp lý và quy hoạch gần đây, Việt Nam đã đặt nền móng vững chắc để phát triển năng lượng tái tạo, bao gồm điện gió ngoài khơi. Bước tiếp theo mang tính quyết định là hiện thực hóa tầm nhìn đó bằng cách ban hành quy định rõ ràng, xây dựng cơ chế thị trường hiệu quả và cải thiện quy trình hành chính.
(VNF) - Giá vàng tăng cao đang tạo ra cơn sốt đào vàng tại Columbia. Vàng giúp dân nghèo đổi đời, nhưng cũng kéo theo nhiều hệ lụy, từ sự lũng đoạn của các băng đảng xã hội đen, đến các hoạt động khai thác trái phép hủy hoại môi trường.
(VNF) - Đại diện Cargill, ông Maxime Hilbert - Quyền Tổng giám đốc ngành Dinh dưỡng thủy sản, Cargill Thái Lan & Việt Nam đã có những chia sẻ với VietnamFinance xung quanh quyết định mới nhất của tập đoàn.