Theo số liệu khảo sát, mỗi ngày Hà Nội và TP.HCM phát sinh khoảng 3.000 tấn chất thải xây dựng, trong khi Đà Nẵng cũng lên tới khoảng 1.000 tấn. Lượng chất thải khổng lồ này phần lớn vẫn đang được xử lý bằng hình thức chôn lấp hoặc đổ thải không kiểm soát, gây ra những hệ lụy về môi trường, lãng phí tài nguyên và gia tăng áp lực cho các đô thị lớn.
Trong bối cảnh đó, dự án SATREPS – chương trình hợp tác khoa học công nghệ giữa Việt Nam và Nhật Bản đã thí điểm nhiều mô hình xử lý và tái chế CTRXD, từ nghiền tái chế tại chỗ đến vận hành trung tâm tái chế quy mô công nghiệp. Những kết quả ban đầu cho thấy tiềm năng không chỉ ở khía cạnh môi trường mà còn mở ra một thị trường mới về vật liệu xây dựng tái chế.
GS.TS. Nguyễn Hoàng Giang - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Xây dựng Hà Nội, Chủ nhiệm Dự án SATREPS Việt – Nhật đã chia sẻ chi tiết với VietnamFinance về công nghệ, mô hình quản lý và triển vọng phát triển thị trường vật liệu tái chế từ chất thải xây dựng.
Công nghệ mới và mô hình quản lý chất thải xây dựng
Dự án SATREPS đã thực nghiệm quy trình xử lý chất thải xây dựng ngay tại công trường. Ông có thể mô tả rõ hơn các bước và thiết bị chính được sử dụng?
GS.TS. Nguyễn Hoàng Giang: Quy trình xử lý CTRXD tại công trường có nhiều bước trong đó, bước 1 là quy trình phá dỡ.
- Tháo dỡ vật dụng, vật liệu nguy hại: Một số vật dụng, vật liệu nguy hại (theo quy định của Thông tư số 36/2015/TT-BTNMT do Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành ngày 30 tháng 06 năm 2015 về quản lý chất thải nguy hại) phải được tháo dỡ theo phương pháp phân loại.
- Phá dỡ bên trong: Các loại vật dụng, thiết bị nội thất bên trong công trình có thể tháo dỡ, phân loại theo phương pháp thủ công bằng tay hoặc dụng cụ cầm tay
- Phá dỡ bên ngoài: Một số loại thiết bị, vật dụng, vật liệu có thể có giá trị hoặc có thể tái chế dễ dàng hơn, cần phải được tháo dỡ và phân loại.
- Phá dỡ khung: Thực hiện tháo dỡ các hạng mục kết cấu bao che (tường, vách ngăn…) đối với các kết cấu khung bê tông, thép. Tiếp theo, thực hiện phá dỡ các kết cấu khung. Các loại kết cấu khung được phá dỡ bằng các loại thiết bị, máy móc hạng nặng.
- Phá dỡ nền, sàn, móng.
Bước 2: Phân loại tại nguồn.
- Sắp xếp, tổ chức không gian cần thiết tại công trường phục vụ việc phân loại và lưu giữ tạm thời CTRXD
- Xác định các nhóm CTRXD thông thường và CTRXD nguy hại để có hình thức phân loại phù hợp
- Lập và quản lý hồ sơ phân loại CTRXD tại công trường
Bước 3: Phân loại xong thì cần tiến hành thu gom vận chuyển.
- CTRXD thông thường được vận chuyển đến các cơ sở tái chế, xử lý bởi nhà thầu hoặc chủ có chức năng thu gom, vận chuyển đã ký kết hợp đồng với chủ nguồn thải.
- CTRXD nguy hại được vận chuyển đến các cơ sở xử lý, tiêu hủy bởi đơn vị có chức năng thu gom, vận chuyển đã ký kết hợp đồng với chủ nguồn thải.
- Quá trình vận chuyển đến các cơ sở tái chế, xử lý cần đảm bảo các yêu cầu về an toàn (chuyên chở theo đúng tải trọng cho phép), kiểm soát ô nhiễm môi trường (tiếng ồn và bụi). Cần có phương án phun nước liên tục vào các vị trí phát sinh nhiều bụi trong quá trình thu gom CTRXD lên xe vận chuyển.
- Đơn vị thu gom, vận chuyển CTRXD cần lập báo cáo công tác thu gom, vận chuyển theo quy định tại Thông tư số 08/2017/TT-BXD, Phụ lục 3 và 5, và có trách nhiệm thông báo cho Sở Xây dựng địa phương.
Một số phương pháp xử lý, tái chế CTRXD
Chất lượng vật liệu tái chế tại chỗ, như bê tông nghiền hay gạch vỡ, được kiểm soát và đảm bảo ra sao để có thể đưa vào sử dụng, thưa ông?
GS.TS. Nguyễn Hoàng Giang: Nghiền CTRXD tại chỗ là công nghệ tái chế CTRXD ở mức độ thứ 1 bao gồm máy nghiền di động gắn liền các bộ phận nghiền, sàng và phân loại. Công nghệ này khá đơn giản, chỉ có một máy nghiền, thường là máy kẹp hàm để đập nhỏ kích thước của các mảnh vụn lớn. Dây chuyền này cũng có thể sử dụng thêm hệ thống sàng phân loại để tách các cỡ hạt sau khi nghiền nhỏ.
Nhược điểm cơ bản của dây chuyền này là không có bộ phận để loại bỏ tạp chất, nên thường chỉ sử dụng tái chế các loại CTRXD có thành phần ổn định, ít lẫn tạp chất. Dây chuyền tái chế này thường được sử dụng trong dự án cải tạo và nâng cấp mặt đường, vỉa hè ở các nước đang phát triển hoặc tại các công trường đang phá dỡ để giảm chi phí vận chuyển CTRXD.
Cốt liệu tái chế từ CTRXD
Trong quá trình thí điểm, dự án ghi nhận hiệu quả giảm phát thải và tiết kiệm chi phí vận chuyển ở mức nào, thưa ông?
GS.TS. Nguyễn Hoàng Giang: Quá trình triển khai, dự án đã tiến hành nghiền và đánh giá hiệu quả chi phí cho tái chế CTRXD. Việc tái chế có thể tại Công trường hoặc đưa về trung tâm tái chế CTRXD để tiến hành phân loại tái chế. Dự án đã nghiên cứu và so sánh tính khả thi và hiệu quả kinh tế của cả 2 phương án Xử lý tái chế CTRXD di động (Mobile plant) và xử lý tái chế CTRXD tại trung tâm (Stationary plant).
Kết quả cho thấy việc trung tâm tái chế với công suất trung bình trở nên (360 Tấn/Ngày) cho kết quả khả thi tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp. Phương án tái chế tại trung tâm tái chế cho hiệu quả tốt hơn xử lý di động. Nếu địa điểm xa hoặc không có diện tích cho Trung tâm tái chế thì phương án di động có kết quả khả thi hơn.
Dự án đã áp dụng tiêu chuẩn kỹ thuật nào từ Nhật Bản và cần điều chỉnh ra sao để phù hợp với điều kiện Việt Nam, thưa ông?
GS.TS. Nguyễn Hoàng Giang: Nhiều quốc gia đã ban hành luật và quy định riêng cho CTRXD. Nhật Bản là một trong những nước tiên phong với Luật Tái chế Vật liệu Xây dựng ban hành năm 2000. Luật này quy định bắt buộc các nhà thầu phân loại tại nguồn và tái chế các phế thải xây dựng chính (bê tông, nhựa đường, gỗ) đối với công trình trên quy mô nhất định. Luật Nhật Bản yêu cầu chủ phá dỡ phải nộp kế hoạch phá dỡ/tái chế trước khi thi công, đồng thời triển khai hệ thống đăng ký bắt buộc đối với đơn vị phá dỡ nhằm đảm bảo tháo dỡ phân loại đúng quy trình.
Nhờ những chính sách mạnh mẽ này, Nhật Bản đã nâng tỷ lệ tái chế vật liệu xây dựng chính từ ~60% thập niên 1990 lên trên 90% hiện nay, gần như chấm dứt nạn đổ trộm và giảm đáng kể tình trạng chôn lấp trái phép. Tuy vậy, Nhật Bản vẫn tiếp tục cải thiện tái chế các loại chất thải xây dựng hỗn hợp và nhựa – vốn chưa được luật 2000 điều chỉnh.
Hàn Quốc cũng có chính sách quyết liệt. Nước này ban hành Luật thúc đẩy tái chế chất thải xây dựng từ năm 2003, song hành với chiến lược kinh tế tuần hoàn quốc gia. Điểm đáng chú ý là Hàn Quốc quy định bắt buộc sử dụng cốt liệu tái chế trong các công trình xây dựng công và tư, nhờ đó một nửa tổng lượng chất thải của Hàn Quốc (mà chủ yếu là CTRXD) được tái sinh thành tài nguyên.
Hiện nay Hàn Quốc tự hào có hệ thống quản lý chất thải tiên tiến với tỷ lệ tái chế chung ~86% (2017). Các doanh nghiệp phát sinh nhiều chất thải được giao chỉ tiêu tái chế, và sản phẩm mới phải thiết kế dễ tái chế ngay từ đầu [5]. Chính phủ Hàn Quốc cũng mở rộng trách nhiệm của nhà sản xuất (EPR) trong lĩnh vực xây dựng, yêu cầu các chủ dự án xây dựng phải quan tâm đến thu hồi, tái chế vật liệu sau sử dụng.
Hệ thống quản lý chất thải rắn xây dựng (CTRXD) của Singapore được vận hành theo khuôn khổ của Luật Bền vững Tài nguyên (Resource Sustainability Act) và Kế hoạch Không Rác thải (Zero Waste Masterplan), nằm trong định hướng tổng thể của Singapore Green Plan 2030. Cơ quan chịu trách nhiệm chính là National Environment Agency (NEA), trực thuộc Bộ Môi trường và Phát triển Bền vững (MSE). Chính sách yêu cầu tất cả các dự án xây dựng phải phân loại CTRXD tại nguồn, nộp kế hoạch quản lý chất thải trước khi được cấp phép xây dựng, đồng thời đạt tỷ lệ tái chế bắt buộc trên 99%.
Hệ thống hạ tầng xử lý hiện đại gồm các trung tâm như Sarimbun Recycling Park và Tuas Marine Transfer Station, giúp tái chế hiệu quả bê tông, kim loại, gỗ và đất. Bên cạnh đó, Singapore áp dụng cơ chế kinh tế phản ánh đúng chi phí xử lý – phí chôn lấp cao, phí tái chế thấp – cùng chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư công nghệ và áp dụng mô hình “thiết kế để tháo dỡ”.
Việc giám sát được thực hiện qua hệ thống số hóa thời gian thực, kết hợp đào tạo chuyên sâu cho kỹ sư và nhà thầu, tạo nên một mô hình quản lý CTRXD tiên tiến, bền vững, và hướng tới kinh tế tuần hoàn toàn diện. Các nước trong khu vực Đông Nam Á khác hiện nay vẫn chưa thực sự quan tâm đến thực hiện quản lý CTRXD nên tỷ lệ tái chế còn thấp, tình trạng đổ trái phép, chôn lấp còn khá phổ biến.
Liên minh Châu Âu đặt mục tiêu tái chế 70% CTRXD vào năm 2020 theo Chỉ thị Khung về Chất thải 2008/98/EC. Dù chưa đạt mục tiêu này ở tất cả các nước, EU đã đạt trung bình khoảng 50% CTRXD được tái chế (2020), và một số quốc gia tiên tiến đã vượt 70%, thậm chí đạt ~90%.
Chẳng hạn, Đức hiện tái chế khoảng 90% chất thải xây dựng khoáng (gạch, bê tông, đất đá). Sáng kiến Nền kinh tế Tuần hoàn Xây dựng (Kreislaufwirtschaft Bau) của Đức đã liên tục giám sát, báo cáo dữ liệu từ 1996. Báo cáo mới nhất cho thấy năm 2020, Đức phát sinh ~220 triệu tấn CTRXD khoáng, trong đó 197 triệu tấn (khoảng 90%) được tái chế an toàn. Đặc biệt, trong xây dựng đường giao thông, tỷ lệ tái chế lên tới 96% nhờ tái sử dụng tại chỗ lớp vật liệu đào bóc. 13% nhu cầu cốt liệu xây dựng ở Đức đã được đáp ứng bởi vật liệu tái chế, giảm khai thác tài nguyên thiên nhiên.
Tuy đạt thành tựu cao, Đức vẫn tiếp tục hoàn thiện chính sách: chính phủ khuyến khích các dự án công tiên phong sử dụng vật liệu tái chế (bắt buộc dùng cốt liệu tái chế trong xây dựng công nếu không có lý do kỹ thuật loại trừ. Đức cũng đang ban hành quy định về trạng thái “chấm dứt chất thải” đối với vật liệu xây dựng tái chế (End-of-Waste) để công nhận chúng như sản phẩm thông thường, qua đó thúc đẩy thị trường tiêu thụ.
Công nghệ của Nhật Bản khi dùng ở Việt Nam cần được nghiên cứu và phát triển phù hợp với Việt Nam. Mục tiêu để chúng ta có thể làm chủ được công nghệ tốt và đáp ứng các tiêu chuẩn quy định của Việt Nam. Thành phần cốt liệu tái chế tại mỗi nước, mỗi địa phương có tính chất khác nhau do đó tùy vào yêu cần thực tiễn, chúng ta sẽ thiết kế dây truyền công nghệ phù hợp với yêu cầu.
Sản phẩm cốt liệu từ CTRXD
Ngoài công nghệ, ông cho rằng Việt Nam có thể học được điều gì từ thế giới trong quản lý chất thải xây dựng?
GS.TS. Nguyễn Hoàng Giang: Ngoài yếu tổ công nghệ, luật và tiêu chuẩn chúng ta có thể học hỏi từ Nhật Bản, Châu Âu… Chúng ta có thể học hỏi họ cách tiếp cận về quản lý kinh tế tuần hoàn và bền vững.
Việc có định hướng chính sách cho Tái chế, tái sử dụng tài nguyên nhằm có bảo vệ tài nguyên có có năng lượng, nguyên liệu tái tạo giúp cho chúng ta bảo vệ môi trường, có phát triển bền vững và ứng dụng được khoa học công nghệ vào các lĩnh vực chuyên môn cao.
Việc tuyên truyền thực hiện tốt các quy định của Chính phủ về kinh tế tuần hoàn, tái chế giúp người dân nhận biết và có thói quen tái sử dụng nguyên vật liệu, bảo vệ môi trường sống.
Kinh tế – chính sách: Động lực cho chuyển đổi xanh
Theo ông hiện nay, những rào cản nào đang khiến mô hình liên kết ba bên “Nhà nước – Nhà khoa học – Nhà doanh nghiệp” khó đi vào thực tế?
GS.TS. Nguyễn Hoàng Giang: Hợp tác liên kết 3 nhà trong lĩnh vực tái chế CTRXD đang có những thành công bước đầu.
Hiện các Nghị quyết 57, Nghị quyết 68 đang hỗ trợ việc thực hiện mạnh mẽ các mục tiêu đưa KHCN của các trường Đại học kết hợp với Doanh nghiệp ra các mô hình kinh doanh, ứng dụng công nghệ vào đời sống. Nhà nước đóng vai trò hỗ trợ chính sách cho sự kết hợp này nhằm đưa sớm nhất công nghệ triển khai thực tiễn.
Tuy nhiên vẫn còn những khó khăn ở đó cần được quan tâm hỗ trợ. Với xử lý CTRXD, việc cần có quy hoạch địa điểm thu gom tái chế, có phương án vận chuyển trên địa phương là rất quan trọng. Việc cập nhật quy hoạch, có phương án lựa chọn doanh nghiệp phù hợp để xử lý còn chưa được thực hiện nhanh và kịp thời.
Doanh nghiệp khi thực hiện phối hợp với nhà trường ứng dụng KHCN về xử lý CTRXD cần được nhà nước khuyến khích bằng các ưu đãi về thuế đặc biệt tạo điều kiện cho ứng dụng vật liệu tái chế cho các công trình.
Việc ban hành tiêu chuẩn chỉ dẫn kỹ thuật cho sử dụng Vật liệu tái chế từ CTRXD còn mất nhiều thời gian và quy trình để đưa áp dụng vào thực tiễn.
Việc quản lý chất lượng của vật liệu tái chế còn chưa được thực hiện tốt do thiếu các chuyên gia và thiết bị thí nghiệm chuyên dụng.
Mô hình xử lý tại chỗ có thể hình thành một chuỗi giá trị kinh doanh bền vững như thế nào, thưa ông?
GS.TS. Nguyễn Hoàng Giang: Việc đầu tư xây dựng Nhà máy xử lý tái chế CTRXD hình thành một mô hình kinh doanh ở đó:
Tận dụng được nguồn CTRXD có thể tái chế để sản xuất các sản phẩm vật liệu xây dựng, không gây nguy hại đến môi trường, đáp ứng được yêu cầu của Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 07/5/2018 của Thủ tướng chính phủ về Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050; Nghị định số 09/2021/NĐ-CP ngày 09/2/2021 của Chính phủ về Quản lý vật liệu xây dựng và Quyết định số 1266/QĐ-TTg ngày 18/8/2020 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Chiến lược phát triển vật liệu xây dựng Việt Nam thời kỳ 2021 - 2030, định hướng đến năm 2050.
Sản phẩm sẽ đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của thị trường về các loại sản phẩm từ vật liệu không nung đặc biệt các khu đô thị lớn.
Sản phẩm ctrxd tái chế sẽ cung cấp được cho các công trình xây dựng của Thành phố và các sản phẩm thứ cấp có thể bán thông qua các kênh đại lý liên kết hoặc trong chính hoạt động xây dựng của Công ty, phát triển thị trường thông qua các kênh xúc tiến thương mại, các hội trợ, hội thảo khoa học về lĩnh vực vật liệu xây dựng, đặc biệt là vật liệu xây dựng tái chế, bền vững và bảo vệ môi trường.
Ông nhìn thấy cơ hội gì cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực tái chế vật liệu xây dựng?
GS.TS. Nguyễn Hoàng Giang: Hiện lĩnh vực tái chế CTRXD còn đang nhiều tiềm năng và với khối lượng tái chế lớn, hứa hẹn lượng cung cấp dồi dào và liên tục. Đây là cơ sở để các doanh nghiệp đầu tư phát triển tạo ra một lĩnh vực mới về tái chế ứng dụng CTRXD.
Ứng dụng cốt liệu tái chế từ CTRXD làm đường bê tông tiêu nước tại Việt Nam.
Làm sao để nâng cao nhận thức của ngành xây dựng và cộng đồng về giá trị của chất thải xây dựng tái chế, thưa ông?
GS.TS. Nguyễn Hoàng Giang: Nâng cao nhận thức cho cộng đồng, và doanh nghiệp xây dựng về lợi ích của việc sử dụng vật liệu tái chế nhằm tạo và gia tăng nhu cầu.
Phối hợp giữa 3 nhà nhằm tổ chức các chương trình hội thảo, tập huấn chia sẻ kinh nghiệm và lợi ích chất lượng của CTRXD tái chế.
Thực hiện các chiến dịch tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho các bên liên quan về tầm quan trọng, và lợi ích của giảm thiểu và tái chế CTR XD và hệ thống QL CTR XD bền vững.
Khuyến khích đổi mới sáng tạo, chia sẻ kiến thức giữa các bên liên quan thông qua các hội nghị, hội thao, seminar về thực hành quản lý chất thải bền vững.
Có các chương trình trao chứng chỉ, chứng nhận, giải thưởng cho các doanh nghiệp đại được thành tự trong quản lý và tái chế CTR XD
Từ kết quả thực nghiệm, ông có đề xuất chính sách cụ thể nào để thúc đẩy tái chế chất thải xây dựng trên quy mô toàn quốc?
GS.TS. Nguyễn Hoàng Giang: Thực hiện nghiêm túc các quy định về xử lý và đổ thải CTRXD, quy định xử phạt chặt chẽ với các trường hợp vi phạm.
Có yêu cầu cụ thể tỷ lệ tái chế và tái sử dụng CTR XD đối với CĐT nhằm khuyến khích sự phát triển của các cơ sở tái chế.
Cung cấp các ưu đãi thuế, trợ cấp hoặc tài trợ cho doanh nghiệp đầu tư vào cơ sở xử lý CTRXD.
Cung cấp các ưu đãi thuế, trợ cấp hoặc tài trợ hoặc chủ nguồn thải, cơ sở thu gom, tái chế, xử lý áp dụng các thực hành quản lý chất thải bền vững.
Cung cấp, hỗ trợ tải chính cho nghiên cứu và phát triển công nghệ tái chế mới, phương pháp, giải pháp bền vững.
Hợp tác công tư:
Xây dựng quan hệ đối tác giữa chính quyền TP và các đơn vị tư nhân để đầu tư, xây dựng và vận hành các cơ sở tái chế, xử lý CTR XD. Đảm bảo chia sẻ rủi ro và lợi nhuận trong đầu tư.
Thực hiện các hợp đồng dài hạn đối với các dịch vụ quản lý chất thải, đảm bảo sự ổn định lâu dài và lợi nhuận cho các đơn vị thuộc khối tư nhân.
Các quy định, chính sách cụ thể, rõ ràng, minh bạch, dễ tìm hiểu cho các nhà đầu tư đối với lĩnh vực QLCTR và CTR XD.
Các chính sách khuyến khích sử dụng vật liệu tải chế (ví dụ: tiêu chuẩn, chứng chỉ, hay ưu tiên trong chính sách đấu thẩu...) nhằm phát triển thị trường vật liệu tái chế.
Ứng dụng thực tiễn và triển vọng thị trường tương lai
Hiện tại ở Việt Nam đã có những mô hình doanh nghiệp nào tham gia xử lý, tái chế chất thải xây dựng? Họ đang vận hành theo hình thức nào?
GS.TS. Nguyễn Hoàng Giang: CTRXD phổ biến nhất hiện nay ở Việt Nam là CTRXD (hỗn hợp bê tông, gạch và đất…) phát sinh từ các khu vực xây dựng và phá dỡ đang được đổ thải bừa bãi hoặc được đổ tại các bãi chôn lấp. Ví dụ, tại Hà Nội khoảng 40-56% lượng CTR XD sinh ra hàng ngày được thải bỏ ở bãi chôn lấp CTR XD.
Mặt khác, hầu hết các vật liệu có thể bán được như thép, kim loại, gỗ và nhựa được phân loại tại các điểm tập kết và được bán cho các cơ sở tái chế với quy mô nhỏ lẻ. Ngoại trừ lượng CTR XD được thu gom và vận chuyển đến bãi chôn lấp, và các vật liệu có thể bán được, lượng CTR XD còn lại chủ yếu được thải bỏ theo hình thức đổ thải bất hợp pháp, gây ra một số vấn đề ô nhiễm môi trường.
Việc triển khai thực tiễn theo mô hình doanh nghiệp tái chế CTRXD hoàn chỉnh còn rất hạn chế. Một số địa phương như Quảng Ninh, Đà Nẵng đã tiến hành nghiên cứu bàn hành quy trình về quản lý và tái chế chất thải rắn xây dựng để ứng dụng làm vật liệu xây dựng trên địa bàn.
Tuy nhiên có những khó khăn chung là các doanh nghiệp chưa được tiếp cận vị trí được quy hoạch xử lý CTRXD do đó chưa được đầu tư bài bản. Một số doanh nghiệp tham gia mới dừng ở mức nghiền CTRXD cho chôn lấp hoặc làm gạch không nung ở quy mô vừa và nhỏ.
Theo ông, những thuận lợi và khó khăn của Việt Nam khi triển khai mô hình tái chế chất thải xây dựng là gì?
GS.TS. Nguyễn Hoàng Giang: Như tôi chia sẻ trên, chúng ta có những khó khăn hiện tại do chính sách và quy định cần được làm rõ và quan tâm hơn nữa. Nhận thức và tầm quan trọng và tiềm năng của mô hình tái chế CTRXD còn chưa được biết đến nhiều.
Tuy nhiên có những thuận lợi khi thực hiện việc tái chế CTRXD tại Việt Nam trong đó:
Tiềm năng của thị trường là rất lớn theo số liệu khảo sát khi có rất nhiều lượng CTRXD có thể tái chế
Chính phủ, các địa phương ngày càng quan tâm và quyết liệt thúc đẩy quản lý và tái chế CTRXD.
Các doanh nghiệp có tiềm năng tài chính và công nghệ sẵn sàng tham gia và cam kết trong lĩnh vực này.
Các đội ngũ chuyên gia về CTRXD có nhiều kinh nghiệm và kết hợp chặt chẽ với Nhà nước và doanh nghiệp nhằm đưa việc quản lý tái chế CTRXD vào thực tiễn.
Kết quả thí điểm của dự án cho thấy hiệu quả kinh tế – môi trường ra sao nếu nhân rộng?
GS.TS. Nguyễn Hoàng Giang: Việc dự án đã tiến hành nghiên cứu ứng dụng vào một số địa phương đem lại kết quả tốt. Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 13694:2023 về Cấp phối tái chế từ chất thải rắn xây dựng làm lớp móng đường giao thông đô thị - Yêu cầu kỹ thuật và phương pháp thử, Chỉ dẫn kỹ thuật về phân loại CTRXD tại nguồn đã được ban hành giúp ứng dụng vật liệu từ CTRXD dễ dàng hơn trên cả nước. Do đó, nếu nhân rộng thì mô hình này sẽ giúp việc quản lý tái chế CTRXD tại các địa phương rất hiệu quả.
Mô hình kinh doanh bền vững này giúp tạo công ăn việc làm cũng như bảo đảm yếu tố bảo vệ môi trường tránh gây ô nhiễm không khí, môi trường và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên. Hình 5 cho ứng dụng cốt liệu bê tông tái chế từ CTRXD làm phủ gốc cây tránh ô nhiễm môi trường và đảm bảo sự phát triển của cây.
CTRXD làm bê tông thấm nước phủ gốc cây
Trong bối cảnh đô thị hóa nhanh và nhu cầu xây dựng lớn, triển vọng thị trường tái chế chất thải xây dựng ở Việt Nam trong 5–10 năm tới sẽ như thế nào?
GS.TS. Nguyễn Hoàng Giang: Qua số liệu khảo sát cho thấy trên phạm vi toàn cầu, chất thải rắn từ xây dựng và phá dỡ (Construction & Demolition Waste – C&D waste) chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng lượng chất thải. Tại Liên minh Châu Âu (EU), CTRXD được ghi nhận là dòng chất thải lớn nhất, chiếm khoảng một phần ba tổng lượng chất thải phát sinh. Khối lượng CTRXD ở EU khoảng 530 triệu tấn/năm, còn tại Hoa Kỳ khoảng 190 triệu tấn/năm. Ở nhiều nước đang phát triển như Trung Quốc, Ấn Độ, tỷ lệ tái chế CTRXD dưới 10%, trong khi các nước phát triển như Nhật Bản đạt trên 90%.
Tại Việt Nam, các đô thị lớn phát sinh CTRXD hàng trăm đến hàng ngàn tấn mỗi ngày. Ví dụ: năm 2018 Hà Nội và TP. HCM mỗi ngày phát sinh khoảng 3.000 tấn CTRXD; Đà Nẵng cũng lên đến hoảng 1000 tấn/ngày.
Điều này cho thấy việc phát triển đô thị hóa nhanh sẽ ngày càng tạo ra lượng lớn CTRXD. Việc ứng dụng KHCN sẽ giúp tái chế một lượng lớn CTRXD từ các đô thị giúp tạo ra một thị trường về CTRXD đầy tiềm năng.
Ông đánh giá tiềm năng xuất khẩu vật liệu tái chế từ chất thải xây dựng ra thị trường quốc tế có khả thi không?
GS.TS. Nguyễn Hoàng Giang: Tại nhiều nước trên thế giới, việc sử dụng vật liệu tái chế trong đó có Vật liệu tái chế từ CTRXD đã được hình thành và ứng dụng phổ biến. Các ứng dụng Vật liệu tái chế hiệu quả giúp trung hòa carbon cũng như thúc đẩy khuyến khích phát triển bền vững và tiết kiệm khai thác tài nguyên từ tự nhiên. Do đó việc xuất khẩu vật liệu tái chế hay các sản phẩm từ vật liệu tái chế từ CTRXD là rất tiềm năng.
Các loại sản phẩm phổ biến từ CTRXD như: Gạch không nung; bê tông tiêu nước hay cát, cốt liệu sử dụng cho bê tông là sản phẩm có nhiều tiềm năng.
Xin trân trọng cảm ơn ông!
Thiên Ân -
26/08/2025
Xin mời bấm link để đọc các bài viết trong chùm bài
(VNF) - TS. Nguyễn Bích Lâm cho rằng, tháo gỡ điểm nghẽn thể chế chính là động lực căn bản cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam trở nên bền vững. Trong bối cảnh hiện tại, Quốc hội cần đóng vai trò trung tâm trong kiến tạo khung pháp lý minh bạch, linh hoạt và thực tiễn – nơi luật phải “sống cùng đời sống”, khơi thông dòng vốn và dòng sáng tạo. Một Quốc hội chủ động, đổi mới tư duy lập pháp và giám sát bằng dữ liệu sẽ là nền tảng cho tăng trưởng bền vững và khát vọng hùng cường 2045.
(VNF) - Chỉ sau 45 năm đổi mới, GDP của thành phố Thâm Quyến đã tăng gấp 13.000 lần. Từ một làng chài ven biển, Thâm Quyến giờ đây là "thiên đường" của các start-up công nghệ.
(VNF) - Với vị thế là một trong những cực tăng trưởng năng động nhất cả nước, Hải Phòng đang chuyển mình mạnh mẽ từ “điểm đến FDI” thành trung tâm kiến tạo môi trường đầu tư đẳng cấp quốc tế.
(VNF) - Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, tiếng nói của giới doanh nhân không chỉ là câu chuyện về lợi nhuận, mà còn là cam kết về trách nhiệm xã hội, đổi mới sáng tạo và khát vọng kiến tạo Việt Nam hùng cường.
(VNF) - Luật sư Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch Công ty Luật SBLAW, cho rằng một quốc gia mạnh phải là quốc gia có đội ngũ luật sư giỏi, bản lĩnh và chuyên nghiệp. Bởi luật sư không chỉ là người bảo vệ công lý, mà còn là lực lượng góp phần kiến tạo môi trường pháp lý minh bạch, thúc đẩy phát triển kinh tế và củng cố niềm tin xã hội.
"Tôi sinh ra ở đất nam đàn. Từ năm 10 tuổi, tôi đã bắt đầu đi cỏ, đi củi qua sông Lam. Cha tôi hướng dẫn tôi cày và tôi cày rất giỏi. Cha thường dặn tôi: Đường cày phải cày cho thẳng, muốn đường thẳng, phải nhìn về phía xa, phía trước". Mang theo triết lý giản dị đó, "người thợ cày" Nguyễn Đình Lương đã kiên trì, bền bỉ bước vào cuộc đấu trí ròng rã hơn 5 năm trời với những nhà thuyết khách hàng đầu nước Mỹ.
(VNF) - Ông Phạm Đình Đoàn, Chủ tịch HĐQT Phú Thái Holdings, nhấn mạnh Nghị quyết 68 đã mở ra một thời cơ mới cho doanh nghiệp tư nhân Việt Nam phát triển, đặc biệt với các doanh nghiệp nhỏ.
(VNF) - Đánh giá thế giới không còn nhìn nhận Việt Nam là một nước chỉ xuất khẩu được nông sản hay các sản phẩm giá trị thấp, Chủ tịch CT Group cho rằng Việt Nam hiện nay đã 'bằng vai phải lứa' với thế giới.
(VNF) - Kỷ niệm 80 năm Quốc hội Việt Nam, TS. Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, nhấn mạnh: Quốc hội đã tạo dựng được nhiều dấu ấn lịch sử trong lập pháp, giám sát và quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước. Nhưng để đáp ứng yêu cầu thời đại mới, Quốc hội cần chuyển mình thành “Quốc hội kiến tạo, chuyên nghiệp và gần dân” – một mô hình nghị viện hiện đại, minh bạch và gắn bó mật thiết với đời sống nhân dân.
(VNF) - Yêu cầu tự do hóa thị trường ngoại hối mà MSCI đặt ra đối với thị trường chứng khoán Việt Nam không hề “quá tầm” nếu nhìn nhận từ tư duy kinh tế thị trường. Trong bối cảnh nhà đầu tư toàn cầu đặt trọng tâm vào khả năng chuyển đổi vốn và đo lường rủi ro, các nhà quản lý cần mạnh dạn vượt qua tâm lý thận trọng quá mức trong điều hành.
(VNF) - Dù tọa độ của thị trường chứng khoán Việt Nam trên bản đồ MSCI đã có những dịch chuyển nhất định, vị trí hiện tại vẫn còn khoảng cách đáng kể với “khu vực” thị trường mới nổi. Điều Việt Nam cần lúc này là không chỉ là nỗ lực, mà là xác định đúng hướng đi – cải thiện trúng tiêu chí quan trọng nhất.
(VNF) - Tận dụng lợi thế vị trí địa lý là cửa ngõ ra biển của trục hành lang Đông Tây, THILOGI đầu tư phát triển hệ thống logistics trọn gói, đồng bộ, hình thành chuỗi vận chuyển khép kín, kết nối thông suốt hàng hóa từ nội địa Lào ra thị trường quốc tế, góp phần thúc đẩy kinh tế khu vực biên giới.
(VNF) - Với triết lý kiến tạo đô thị gắn với văn hóa bản địa và phong cách sống hiện đại, Blanca City thiết lập một hệ tiện ích độc đáo, nơi cư dân tận hưởng trọn vẹn trải nghiệm đa chiều: sống - nghỉ dưỡng - giải trí - kết nối - truyền cảm hứng trong một điểm đến.
(VNF) - Theo ông Ko Tae Yeon - Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam (KOCHAM), muốn tham gia sân chơi toàn cầu thì không thể trông chờ vào ưu ái. Doanh nghiệp phải tự thay đổi, chủ động học hỏi và đầu tư đúng hướng. Không gì là không thể, nếu chúng ta thực sự bắt tay làm.
(VNF) - Trong hành trình 10 năm qua, tài sản lớn nhất mà VietnamFinance có được là sự tin yêu của cộng đồng. Đó không chỉ là những bạn đọc, là đối tác, khách hàng mà hơn hết đó là những người đồng hành và động lực để VietnamFinance tiếp tục vững tin trên con đường đã chọn. Kỷ niệm 10 năm của VietnamFinance thêm ý nghĩa khi có những lời sẻ chia của những bạn đồng hành.
(VNF) - Từ một món ăn chưa từng biết đến rõ ràng tại Việt Nam, Quốc Trường và các Co-founder đã đưa Sasin trở thành thương hiệu tiên phong, phát triển thành chuỗi cửa hàng hơn 100 chi nhánh với quy trình vận hành bài bản. Nhưng phía sau thành công ấy là cả một hành trình mà các Co-founder phải trải qua nhiều thử thách, cùng nhau “vấp ngã và đứng lên”.