Điện than và thuỷ điện: Hiện tại là chủ đạo, tương lai mất dần vị thế

Hải Đường - 30/05/2024 08:15 (GMT+7)

(VNF) - Giới phân tích cho rằng, điện than và thuỷ điện sẽ hưởng lợi và nắm vai trò chủ đạo trong năm 2024 khi có sự hỗ trợ của hiện tượng La Nina (đối với thuỷ điện) và giá nhiên liệu giảm (đối với điện than).

Tỷ lệ huy động cao

Theo Công ty Chứng khoán Rồng Việt (VDSC), tiêu thụ điện năm 2024 được dự báo sẽ tăng trưởng khả quan so với mức nền thấp của năm 2023, trong đó nhóm điện than và thuỷ điện sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong hệ thống điện.

Cụ thể, năm 2024, theo Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), sản lượng điện sản xuất và nhập khẩu dự kiến sẽ tăng trưởng khả quan so với năm 2023, đạt khoảng 6,18 - 9,15% nhờ kỳ vọng sản xuất công nghiệp phục hồi và nhu cầu tiêu thụ điện dân cư tăng cao do tác động của hiện tượng El Nino trong nửa đầu năm. Theo nhận định xu thế thời tiết của Trung tâm Dự báo khí tượng Quốc gia, khoảng tháng 6-8/2024, hiện tượng La Nina có thể quay trở lại.

Theo phương án được lựa chọn cho năm 2024, điện than là nhóm sẽ được huy động tương đối cao (tăng 23% so với sản lượng thực tế huy động trong năm 2023) nhờ giá nhiên liệu hạ nhiệt tương đối, trong khi hiện tại chưa có nguồn điện lớn mới đi vào vận hành. Trong khi đó, nhóm điện khí dự kiến sẽ giảm phần đóng góp (giảm 12% so với sản lượng thực tế huy động trong năm 2023) khi lượng cấp khí cho việc phát điện suy giảm.

VDSC cho rằng kết quả kinh doanh nhóm nhiệt điện sẽ đến từ sản lượng thực phát trong nửa đầu năm và nửa cuối năm sẽ ghi nhận thêm từ phần doanh thu CFD, trong đó, nhóm thủy điện sẽ có tăng trưởng so với cùng kỳ trong nửa cuối năm 2024 khi sản lượng phục hồi.

Lũy kế 4 tháng năm 2024, sản lượng tiêu thụ điện đạt 96,16 tỷ kWh (tăng 12,4% so với cùng kỳ), là mức tăng trưởng cao so với các kịch bản tăng trưởng tiêu thụ tiêu thụ điện năm 2024. Trong đó, nhiệt điện than được huy động nhiều nhất, đóng góp hơn 59% trong tổng sản lượng điện tiêu thụ tháng 4.

(Ảnh minh hoạ)

Đồng quan điểm, các chuyên gia của Công ty Chứng khoán Vietcombank (VCBS) cũng cho rằng nhiệt điện than và thuỷ điện đều được hưởng lợi trong năm 2024. Trong bối cảnh EVN đang gặp khó khăn tài chính, thuỷ điện vẫn là nguồn điện được ưu tiên huy động do rẻ nhất hệ thống.

Công suất thủy điện dự kiến đạt 29.346 MW đến năm 2030 và hơn 36.000 MW đến năm 2050. Tuy nhiên, tổng công suất nguồn thủy điện đang vận hành đến năm 2023 đã đạt 22.872 MW (gồm khoảng 17.930 MW thủy điện vừa và lớn).

Do đó tiềm năng nguồn thủy điện vừa và lớn về cơ bản đã được khai thác gần hết, tiềm năng thủy điện trong tương lai chủ yếu tăng thêm do mở rộng các nhà máy hiện có và xây mới thủy điện nhỏ. Trong giai đoạn từ 2021-2025, dự kiến sẽ có 3 nhà máy thủy điện lớn đi vào vận hành Hòa Bình MR, Ialy MR và Trị An MR.

Với nhiệt điện than, VCBS cho rằng các nhà máy nhiệt điện tại miền Bắc sẽ có triển vọng tăng trưởng cao hơn trong nửa đầu năm do khu vực này đang có nguy cơ thiếu điện rất cao. Công suất lắp đặt tại miền Bắc không tăng trưởng trong khi nhu cầu phụ tải ngày càng gia tăng.

“Miền Bắc chủ yếu là thủy điện và nhiệt điện than. Thủy điện thiếu ổn định và ảnh hưởng của EL Nino trong nửa đầu năm 2024 sẽ giúp nhiệt điện than tiếp tục duy trì ở mức cao”, các chuyên gia của VCBS cho biết.

Tuy nhiên, nhiều dự án nhiệt điện than đang chậm tiến độ và bị loại bỏ khỏi Quy hoạch điện VIII. Tại miền Bắc, nếu các dự án bị chậm tiến độ có thể hoàn thành kịp đến năm 2030, thì miền Bắc chỉ có thêm tối đa 3.160MW nhiệt điện than. Trong khi nhu cầu được tính toán theo Quy hoạch điện VIII thì cần có thêm 10.800MW nguồn mới để áp ứng.

Tại miền Trung, dự án Nhiệt điện Quảng Trạch 1 (1.200MW) dự kiến hoàn thành vào năm 2026, chậm tiến độ 5 năm. Còn Nhiệt điện Quảng Trạch 2 (2027 - 2028) được chuyển sang sử dụng khí LNG.

Tại miền Nam, hai dự án nhiệt điện than chưa bố trí được vốn là Sông Hậu 2 BOT (2.000MW) và Vĩnh Tân 3 BOT (1.980MW). Nhiệt điện Long Phú 1 (1.200MW) dự kiến đưa vào năm 2018 - 2019, bị dừng lại do nhà thầu Powermachine - Nga bị Mỹ cấm vận.

VCBS cho biết Quy hoạch điện VIII đã loại bỏ một loạt dự án điện than ở miền Nam với khoảng 6.600MW như Long Phú 2 và 3, Long An 1 và 2, còn dự án Nhiệt điện Bạc Liêu chuyển sang LNG.

Giá điện sẽ hạ nhiệt

Theo VDSC, giá toàn phần thị trường điện (FMP) năm 2024 dự kiến sẽ không biến động mạnh như trong năm 2023 khi giá than nhiệt dần ổn định. Theo kế hoạch vận hành thị trường điện 2024, mức giá trần thị trường điện dự kiến đạt 1.510 đồng/kWh (giảm 17,8%) và giá công suất thị trường điện trung bình dự kiến đạt 330,5 đồng/ kWh (tăng 9,9%).

VDSC kỳ vọng giá FMP trung bình trong năm 2024 sẽ hạ nhiệt và không biến động mạnh như trong năm 2023 khi mặt bằng chung giá nhiên liệu đầu vào cho nhiệt điện than dần ổn định. Trên thị trường phát điện cạnh tranh, giá điện thị trường đang có xu hướng nhích dần trong vài tháng qua. Giá điện toàn phần tháng 4 đạt khoảng 1.748 đồng/kWh, tăng 16,6% so với mức bình quân của quý I/2024.

Bình quân 4 tháng năm 2024, giá điện toàn phần đạt 1.562 đồng/kWh, giảm 11% so với cùng kỳ năm 2023. VDSC kỳ vọng khi mùa mưa đến trong tháng 5 và 6, giá điện thị trường sẽ hạ nhiệt trở lại.

Tăng cường phát triển điện khí và năng lượng tái tạo

Theo VCBS, các mỏ khí chủ lực hiện nay của Việt Nam đã và đang trong giai đoạn suy giảm sau quá trình dài khai thác. Do đó sản lượng khí cung cấp cho điện tại khu vực Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ giảm dần. Nguồn cung khí nội địa mới cho điện chỉ còn nguồn khí miền Trung (Cá Voi Xanh và Báo Vàng) và nguồn khí Lô B.

Tổng cung khí cho điện giai đoạn 2035 - 2045 sẽ chỉ còn duy trì khoảng 7,7 tỷ m3/năm. Trong phần trữ lượng nguồn khí nội địa đã phát hiện nhưng chưa khai thác đến hiện nay, trữ lượng từ các dự án này chiếm tới 30%, bằng với trữ lượng còn lại của các mỏ đang khai thác. Do đó việc phát triển các dự án này là cần thiết, sẽ đem lại hiệu quả và lợi ích tổng thể rất lớn cho nhà nước.

(Ảnh minh hoạ)

Cung giảm, trong khi nhu cầu khí trong nước sẽ ngày càng tăng trong các lĩnh vực sản xuất điện, hóa chất, công nghiệp, giao thông vận tải, đô thị…Tổng nhu cầu khí dự kiến theo quy hoạch ngành khí (nhu cầu cơ sở) lên tới khoảng 13 tỷ m3 vào năm 2020, hơn 22 tỷ m3 vào năm 2025 và trên 34 tỷ m3 vào năm 2030. Trong khi sản lượng khai thác khí trong nước đang ngày càng giảm dần. Do vậy, VCBS cho rằng việc nhập khẩu khí LNG là tất yếu để đáp ứng nhu cầu khí trong nước.

Theo VCBS, giá LNG được dự báo tiếp tục duy trì ở mức cao do nhu cầu khí đốt toàn cầu tăng trong khi nguồn cung dự kiến thắt chặt trở lại vào năm 2024. Bên cạnh đó, căng thẳng địa chính trị, hạn chế vận chuyển ngày càng gia tăng cũng có thể làm gia tăng căng thẳng thị trường và biến động giá LNG.

Về năng lượng tái tạo, theo Quy hoạch điện VIII, điện tái tạo sẽ tiếp tục được phát triển mạnh mẽ. VCBS cho biết tổng công suất năng lượng tái tạo (không tính thủy điện) sẽ đóng góp 63% tổng công suất thiết kế vào năm 2050. Trong giai đoạn 2021-2030, nhóm điện gió được đẩy mạnh cả trên bờ và ngoài khơi, sau năm 2030, nhóm điện mặt trời sẽ gia tăng công suất nhanh chóng.

Theo VCBS, định hướng đẩy mạnh công suất điện gió theo Quy hoạch điện VIII phù hợp với xu hướng chung của thế giới. Trong đó, Việt Nam có tiềm năng kỹ thuật phát triển điện gió lên tới 821GW, bao gồm 221GW điện gió ngoài bờ và 600GW điện gió ngoài khơi.

Về điện mặt trời, Việt Nam có tiềm năng lớn phát triển điện mặt trời lên tới 914MW, tập trung chủ yếu tại khu vực Nam Bộ (248GW), Tây Nguyên (199GW) nhờ vào số giờ nắng và tổng năng lượng bức xạ cao.

Ngành điện 2024: Cơ hội lớn cho doanh nghiệp nhiệt điện và xây lắp điện

Ngành điện 2024: Cơ hội lớn cho doanh nghiệp nhiệt điện và xây lắp điện

Tài chính
(VNF) - Các chuyên gia cho rằng huy động nhiệt điện sẽ tích cực hơn trong năm 2024. Xây lắp điện sẽ là trọng tâm ngành trong năm 2024, củng cố bởi nhu cầu cấp bách truyền tải Nam – Bắc và những tín hiệu mới từ chính sách năng lượng tái tạo.
Cùng chuyên mục
Tin khác