Thâm nhập khu đất xây dựng Tổ hợp Hòa Xuân hơn 3.500 tỷ ở Đà Nẵng
(VNF) - Khu đất sắp đấu giá để thực hiện dự án Tổ hợp, thể thao giải trí và thương mại Hòa Xuân có diện tích rộng 101 ngàn m2.
Năm 2022 có thể nói là một năm đầy khó khăn, thách thức đối với nền kinh tế nói chung, thị trường tiền tệ nói riêng. Đặc biệt là khi chính sách tiền tệ (CSTT) cùng lúc phải thực thi nhiều nhiệm vụ, mục tiêu đan xen, thậm chí có thời điểm mâu thuẫn nhau. Tuy nhiên NHNN đã điều hành CSTT hết sức chủ động, linh hoạt theo sát diễn biến kinh tế trong nước và quốc tế, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác để kiềm chế lạm phát đạt mục tiêu như Quốc hội và Chính phủ đã đề ra, đồng thời hỗ trợ tăng trưởng đạt mức cao nhất trong nhiều năm trở lại đây; trong khi thị trường tiền tệ, ngoại hối được duy trì ổn định, vững vàng trước những biến động bất thường của thị trường toàn cầu.
Phó Thống đốc Phạm Thanh Hà: Năm 2022 là năm đầu nền kinh tế phục hồi sau đại dịch Covid-19 nhưng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức chưa từng có. Xung đột Nga-Ukraine leo thang, giá hàng hóa, lạm phát tăng cao nhất trong 40 năm trở lại đây tại các nền kinh tế phát triển, hơn 80 quốc gia đối mặt với lạm phát hai con số. Xu hướng thắt chặt CSTT khởi động từ năm 2021 được các ngân hàng trung ương (NHTW) thúc đẩy mạnh mẽ trong năm 2022. Mức độ và tần suất tăng lãi suất được Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) thực thi nhanh nhất trong lịch sử với 7 lần điều chỉnh tăng liên tục trong năm 2022 từ 0-0,25%/năm lên 4,25-4,5%/năm. Trước xu hướng thu hẹp Bảng cân đối, đồng thời tăng nhanh, mạnh lãi suất của Fed, đồng USD có xu hướng dịch chuyển mạnh từ các thị trường mới nổi (bao gồm Việt Nam) quay trở lại Mỹ, làm đồng USD tăng giá mạnh trên thị trường toàn cầu. Chỉ số USD quốc tế (DXY) có thời điểm lên trên 115, tăng trên 20% so với cùng kỳ năm 2021 – là mức cao nhất trong 20 năm trở lại đây. Trước xu thế đó, nhiều NHTW tại cả nước phát triển và đang phát triển đã phải tăng mạnh lãi suất và bán ngoại tệ can thiệp thị trường để bảo vệ giá trị đồng bản tệ, kiểm soát lạm phát.
Việt Nam là nền kinh tế nhỏ với độ mở lớn, biến động về giá cả, lạm phát, lãi suất, tỷ giá trong nước và diễn biến bất trắc từ thị trường quốc tế đặt ra thách thức rất lớn cho công tác điều hành CSTT. Trong khi đó, nhu cầu về vốn phục vụ quá trình phục hồi kinh tế sau đại dịch gia tăng áp lực lên tín dụng ngân hàng, trong bối cảnh thị trường vốn (cổ phiếu, trái phiếu) chưa đáp ứng được nhu cầu về vốn trung dài hạn của nền kinh tế. Lạm phát nhập khẩu làm tăng chi phí sản xuất, gây sức ép lên lạm phát trong nước; do đó mặc dù lạm phát bình quân năm 2022 được kiểm soát dưới 4%, nhưng lạm phát cơ bản tăng nhanh, đột biến từ 0,66% tháng 1/2022 so với cùng kỳ năm 2021 lên trên 5% vào tháng 12/2022, cho thấy thách thức rất lớn trong kiểm soát lạm phát năm 2023. Trong bối cảnh đó, điều hành CSTT phải cân đối giữa các nhiệm vụ, mục tiêu đan xen, thậm chí có thời điểm mâu thuẫn nhau trong việc kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ phục hồi kinh tế, ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối, đảm bảo an toàn hệ thống các TCTD, duy trì niềm tin của nhà đầu tư và người dân, nâng cao tính linh hoạt, tạo dư địa chính sách để tăng khả năng hấp thụ các cú sốc từ bên ngoài.
Trước những biến động nhanh, khó lường của thị trường trong nước và quốc tế, bám sát chỉ đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, NHNN đã linh hoạt điều hành CSTT, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế, thích ứng kịp thời với diễn biến thị trường. Theo đó, các công cụ, giải pháp điều hành CSTT được phối hợp đồng bộ, chủ động, linh hoạt nhằm ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối, đặc biệt trong các thời điểm thanh khoản căng thẳng, tâm lý thị trường lo ngại sau sự cố xảy ra tại ngân hàng SCB trong tháng 10; qua đó đã giảm thiểu các cú sốc tiêu cực tác động lên lãi suất, tỷ giá; đảm bảo cung ứng vốn hỗ trợ phục hồi kinh tế; thực hiện tốt mục tiêu kiểm soát lạm phát; đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống các TCTD.
Với các giải pháp CSTT được triển khai đồng bộ, năm 2022 ngành Ngân hàng đã đóng góp tích cực vào các thành quả nổi bật của nền kinh tế. Lạm phát năm 2022 được kiểm soát theo mục tiêu đề ra, trong đó lạm phát CPI bình quân cả năm 2022 là 3,15%, tăng trưởng GDP đạt 8,02%, là mức cao nhất trong nhiều năm gần đây. Những áp lực lớn trên thị trường tiền tệ, ngoại hối trong nước được hóa giải, qua đó góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an toàn của hệ thống TCTD. Tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody’s và S&P nâng mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia cho Việt Nam. Niềm tin của nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân vào môi trường và triển vọng kinh tế trung hạn tiếp tục được giữ vững.
- Có thể thấy trong năm qua sức ép lên tỷ giá là rất lớn khi mà đồng USD tăng giá kỷ lục trên thị trường thế giới. Song kết thúc năm 2022, đồng VND là một trong những đồng tiền ổn định, giảm giá ít nhất trong khu vực và trên thế giới. Xin Phó Thống đốc có thể chia sẻ đâu là giải pháp then chốt của NHNN giúp kiềm chế được tỷ giá chỉ biến động ở mức thấp như vậy?
Từ đầu năm 2022 đến nay, tỷ giá và thị trường ngoại tệ chịu áp lực lớn do những biến động mạnh, bất thường chưa từng có trên thị trường quốc tế; cụ thể như: (i) Fed đẩy nhanh tiến trình thắt chặt CSTT, tăng nhanh và mạnh lãi suất điều hành lên 4,25%-4,5% (là mức tăng mạnh nhất trong vòng 40 năm trở lại đây) và phát tín hiệu tiếp tục lộ trình tăng lãi suất trong năm 2023; (ii) Đồng USD trên thị trường quốc tế tăng giá cao kỷ lục trong vòng 20 năm trở lại đây, khiến nhiều đồng tiền mất giá mạnh so với USD, trong năm 2022 chỉ số USD (DXY) đạt mức cao nhất là 115 vào ngày 27/9/2022; (iii) Xung đột Nga – Ukraine tác động tiêu cực đến thị trường hàng hóa toàn cầu, đặc biệt là thị trường năng lượng, làm trầm trọng thêm tình trạng gián đoạn chuỗi cung ứng, gia tăng áp lực lên giá cả năng lượng, hàng hóa cơ bản mà Việt Nam nhập khẩu. Nhu cầu ngoại tệ để nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu này tại Việt Nam gia tăng mạnh, gây áp lực lớn lên sự mất cân đối cung-cầu của thị trường ngoại tệ trong nước.
Dưới áp lực lớn từ thị trường quốc tế như đề cập ở trên, từ đầu năm 2022 đến nay, cân đối cung cầu ngoại tệ mất cân đối lớn, gặp rất nhiều khó khăn, cầu ngoại tệ tăng cao, thị trường kỳ vọng VND mất giá mạnh theo xu hướng chung của các đồng tiền khác trên thị trường thế giới. Trong bối cảnh đó, để xử lý rốt ráo các thách thức này, NHNN đã chủ động kết hợp điều hành đồng bộ tỷ giá với các công cụ khác của CSTT; cụ thể: (i) Từng bước để tỷ giá biến động linh hoạt hơn, phù hợp với điều kiện thị trường, qua đó tạo cho tỷ giá có thêm dư địa hấp thu được các cú sốc từ bên ngoài, tránh gây sốc thị trường, hạn chế tâm lý, kỳ vọng thị trường, từ đó giải tỏa được hành vi găm giữ ngoại tệ; (ii) Linh hoạt điều hành các phương thức bán can thiệp ngoại tệ trên thị trường theo diễn biến của thị trường và phối hợp triển khai đồng bộ cùng các công cụ CSTT khác (NHNN tăng 2 lần lãi suất điều hành, mỗi lần tăng 1 điểm %, điều tiết thanh khoản VND để nâng cao giá trị của VND…) để hỗ trợ tỷ giá và bình ổn tâm lý thị trường, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát; (iii) Để chủ động thích ứng trước diễn biến khó lường và áp lực lớn của thị trường trước cú sốc đối với thị trường trong tháng 10, ngày 17/10/2022, NHNN điều chỉnh biên độ tỷ giá giao ngay từ ±3% lên ±5% để tạo dư địa cho tỷ giá có đủ mức độ linh hoạt để diễn biến phù hợp với các biến động trên thị trường trong nước và quốc tế. Nhờ vậy, tâm lý găm giữ đã được giải tỏa, và khi áp lực trên thị trường dịu bớt, NHNN đã chủ động giảm dần tỷ giá bán can thiệp để hạn chế kỳ vọng VND mất giá. Với các giải pháp đồng bộ như vậy, thị trường ổn định trở lại, VND đến nay chỉ tăng khoảng 4% so với cuối năm 2021 sau khi tăng đến 9% vào cuối tháng 10, đây là mức mất giá thấp hơn nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.
Nhờ triển khai quyết liệt hàng loạt các giải pháp đồng bộ như trên, VND mặc dù mất giá so với USD theo xu hướng chung của các đồng tiền khác trên thế giới nhưng ở mức thấp hơn nhiều so với nhiều đồng tiền khác. Nhìn chung, trong năm 2022, mặc dù đối mặt với thách thức lớn chưa từng có nhưng thị trường ngoại tệ vẫn duy trì ổn định, thanh khoản thông suốt, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp của nền kinh tế đều được đáp ứng đầy đủ, qua đó góp phần rất quan trọng trong việc ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát.
- Điểm nhấn của NHNN trong năm qua được nhiều chuyên gia ghi nhận, đó là việc cùng lúc thực hiện hai mục tiêu: vừa ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, song vẫn hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế. Giải pháp nào để NHNN có thể thực hiện được hai mục tiêu xem ra trái ngược này là gì, thưa Phó Thống đốc?
Điều hành CSTT trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đầy bất định như hiện nay đối mặt với rất nhiều khó khăn, thử thách vì phải hướng đến các mục tiêu có tính xung đột trong một số thời điểm. Vì thế, công tác điều hành đòi hỏi phải theo sát diễn biến thị trường, kinh tế vĩ mô, trên cơ sở phân tích, dự báo để phối kết hợp đồng bộ, nhuần nhuyễn các công cụ phù hợp với thời điểm, hoàn cảnh.
Trước bối cảnh kinh tế thế giới biến động khó lường, trong 9 tháng đầu năm, NHNN bám sát diễn biến thị trường trong và ngoài nước để điều hành đồng bộ các công cụ và giải pháp CSTT góp phần kiểm soát lạm phát bình quân ở mức thấp (2,73%), hỗ trợ tăng trưởng kinh tế phục hồi tích cực (GDP tăng 8,83%), thị trường tiền tệ, ngoại hối cơ bản ổn định, VND mất giá ở mức thấp (4,8%) so với đồng tiền của nhiều nước (từ 6%-33%), mặt bằng lãi suất VND tăng nhẹ (khoảng 0,3-0,4%) trong khi lãi suất tại nhiều nước tăng mạnh. Thanh khoản hệ thống TCTD ổn định, thông suốt, đáp ứng đầy đủ nhu cầu chi trả của doanh nghiệp, người dân.
Trong tháng 10/2022, thị trường tiền tệ, ngoại hối chịu áp lực trước xu hướng tỷ giá tăng kịch trần, thanh khoản thị trường kém, tâm lý găm giữ ngoại tệ gia tăng. Để giải tỏa áp lực thị trường, NHNN đã phải thực hiện đồng thời các giải pháp cấp bách như: tăng biên độ giao dịch của tỷ giá và cho phép VND biến động linh hoạt hơn như đề cập ở trên; sẵn sàng bán ngoại tệ can thiệp; tăng 1% các mức lãi suất điều hành; hỗ trợ thanh khoản và đảm bảo an toàn hệ thống các TCTD.
Đối với điều hành tín dụng, NHNN đưa ra chỉ tiêu định hướng tăng trưởng tín dụng năm 2022 khoảng 14% và điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tiễn. Do kinh tế phục hồi sau đại dịch, trong khi thị trường trái phiếu doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, nên tín dụng ngân hàng tăng cao, 9 tháng đầu năm 2022 đã tăng 17% so với cùng kỳ 2021 – là mức tăng cao so với nhiều năm trở lại đây. Sau tháng 11, khi thị trường tiền tệ, ngoại hối đã bớt áp lực, thanh khoản cải thiện, NHNN đã điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng thêm 1,5-2% cho các TCTD để hỗ trợ hơn nữa cho doanh nghiệp và người dân, góp phần phục hồi tăng trưởng kinh tế. Đồng thời, NHNN chỉ đạo các TCTD mở rộng tín dụng phù hợp với năng lực quản trị rủi ro, khả năng cân đối vốn để cấp tín dụng, giữ ổn định mặt bằng lãi suất thị trường; hướng tín dụng vào các lĩnh vực ưu tiên, các lĩnh vực tạo động lực cho tăng trưởng theo chủ trương của Chính phủ, tín dụng cho nhà ở xã hội; kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro.
Như vậy, điều hành CSTT đã bám sát diễn biến thị trường trong từng thời điểm, đưa ra các giải pháp điều hành phù hợp tùy thuộc vào bối cảnh tình hình, qua đó đã hỗ trợ nền kinh tế phục hồi tích cực, đồng thời đảm bảo để kiểm soát lạm phát tăng thấp hơn mục tiêu đặt ra.
- Trước những biến động ngày càng khó lường của kinh tế thế giới, áp lực đối với thị trường tiền tệ tiền tệ cũng như hoạt động ngân hàng trong năm 2023 vẫn khá lớn, đặc biệt là lạm phát. Xin Phó Thống đốc cho biết, định hướng giải pháp điều hành CSTT trong năm 2023 để hóa giải các áp lực, đồng thời đạt được mục tiêu Quốc hội, Chính phủ đặt ra đối với ngành Ngân hàng?
Trong thời gian tới, bối cảnh kinh tế toàn cầu tiếp tục còn nhiều yếu tố bất lợi và khó lường, các NHTW tiếp tục duy trì thắt chặt CSTT, tăng lãi suất để tiếp tục kiểm soát lạm phát. Mặc dù lạm phát trong nước hiện vẫn đang được kiểm soát, tuy nhiên, áp lực sẽ tiếp tục gia tăng trong năm 2023, đặc biệt là lạm phát cơ bản có thể tạo nhiều thách thức đối với kiểm soát lạm phát trong năm 2023, đến từ cả yếu tố bên cung (chi phí đẩy) và bên cầu (cầu kéo). Về phía cung, tác động vòng 2 từ giá hàng hóa thế giới tăng cao trong các năm 2020-2022 sẽ tiếp tục được phản ánh vào chi phí sản xuất (lạm phát nhập khẩu) và từ đó tác động vào chi phí tiêu dùng các mặt hàng trong nước. Về phía cầu, dự kiến kinh tế trong nước tiếp tục quá trình phục hồi, qua đó thúc đẩy phục hồi và tăng nhanh tổng cầu của nền kinh tế, gây áp lực lên giá cả. Do đó, chúng ta không thể chủ quan với rủi ro lạm phát năm 2023.
Do đó, để thực hiện thành công mục tiêu lạm phát bình quân năm 2023 khoảng 4,5% mà Quốc hội đặt ra, thời gian tới, NHNN sẽ tiếp tục điều hành chủ động, linh hoạt, đồng bộ các công cụ CSTT để kiểm soát lạm phát; góp phần ổn định vĩ mô, hỗ trợ phục hồi kinh tế; điều hành lãi suất phù hợp với tình hình kinh tế vĩ mô, diễn biến lạm phát và mục tiêu CSTT, hỗ trợ phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh; điều hành tỷ giá linh hoạt, phối hợp đồng bộ với các biện pháp và công cụ CSTT để ổn định thị trường ngoại tệ; sẵn sàng can thiệp thị trường tiền tệ, ngoại hối để đáp ứng nhu cầu thanh khoản của TCTD, qua đó góp phần ổn định thị trường, đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Hiện nay, vốn đầu tư trung dài hạn của nền kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào hệ thống ngân hàng, trong khi huy động vốn của ngân hàng chủ yếu là ngắn hạn, do đó hệ thống các TCTD đối mặt với rủi ro thanh khoản, rủi ro kỳ hạn. Để đảm bảo nguồn vốn cho phát triển kinh tế thì cần phát triển thị trường vốn một cách an toàn, bền vững như thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường chứng khoán, theo đó cần rà soát lại các quy định pháp lý và có giải pháp khắc phục những bất cập hiện nay trên các thị trường này.
- Với các TCTD, Phó Thống đốc có định hướng thế nào trong năm mới?
Bối cảnh kinh tế toàn cầu thời gian tới còn tiếp tục biến động phức tạp, khó lường khi rủi ro suy thoái kinh tế kèm lạm phát cao là khá lớn; trong nước áp lực lạm phát gia tăng và những khó khăn trên thị trường tài chính, tiền tệ tiếp tục là thách thức cho việc thực hiện chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước, mà trọng tâm là giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế bền vững, ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối và đảm bảo an toàn hệ thống các TCTD.
Những thách thức này đòi hỏi các TCTD cần quán triệt chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước cũng như của Ngành để chủ động xây dựng kế hoạch, phương án kinh doanh sẵn sàng thích ứng với các rủi ro, bất trắc có thể xảy ra trong năm 2023. Các TCTD cần tập trung nâng cao năng lực quản trị, điều hành; tăng cường giám sát, tuân thủ các quy định, chuẩn mực trong hoạt động ngân hàng; tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, chú trọng quản trị theo thông lệ quốc tế để nâng cao chất lượng tín dụng, tiếp tục không hạ chuẩn tín dụng nhằm kiểm soát chất lượng nợ, kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, tập trung tín dụng vào các lĩnh vực ưu tiên, các lĩnh vực là động lực tăng trưởng theo chủ trương của Chính phủ, tối ưu hóa việc sử dụng vốn để tăng nhanh vòng quay tín dụng; quyết liệt thực hiện các giải pháp tái cơ cấu và xử lý nợ xấu, đẩy mạnh các biện pháp xử lý nợ xấu. TCTD tích cực, chủ động đồng hành tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân, tiếp tục nỗ lực giảm lãi suất cho vay theo chủ trương của Chính phủ; đồng thời trong bối cảnh hệ số sử dụng vốn thị trường 1 của hệ thống ở mức cao, mặt bằng lãi suất huy động một số TCTD có xu hướng tăng, các TCTD phải đảm bảo cân đối được nguồn vốn, không tạo áp lực lên thanh khoản và lãi suất thị trường trong quá trình cấp tín dụng cho nền kinh tế.
Hoạt động ngân hàng đòi hỏi sự phụ thuộc, tương hỗ chặt chẽ lẫn nhau giữa các TCTD, do đó trong bối cảnh thị trường khó khăn, thách thức, đòi hỏi sự quyết tâm, đồng lòng, đoàn kết và sẻ chia giữa các TCTD, cùng nhau khắc phục khó khăn để hoàn thành tốt kế hoạch và các mục tiêu của ngành Ngân hàng năm 2023.
Xin trân trọng cảm ơn Phó Thống đốc!
(VNF) - Khu đất sắp đấu giá để thực hiện dự án Tổ hợp, thể thao giải trí và thương mại Hòa Xuân có diện tích rộng 101 ngàn m2.