Tiêu điểm

Ì ạch giải ngân vốn đầu tư công: Chỉ 3 bộ, cơ quan trung ương và 9 địa phương giải ngân được trên 50%

(VNF) - Tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công 6 tháng đầu năm vẫn thấp so với yêu cầu. Theo đó, có 3 bộ, cơ quan trung ương và 9 địa phương có tỷ lệ giải ngân trên 50%; 33 bộ, cơ quan trung ương và 3 địa phương có tỷ lệ giải ngân đạt dưới 20%, trong đó có 7 bộ, cơ quan trung ương có tỷ lệ giải ngân đạt dưới 5%.

Ì ạch giải ngân vốn đầu tư công: Chỉ 3 bộ, cơ quan trung ương và 9 địa phương giải ngân được trên 50%

Ì ạch giải ngân vốn đầu tư công: Chỉ 3 bộ, cơ quan trung ương và 9 địa phương giải ngân được trên 50% (ảnh minh họa)

27.000 tỷ đồng vốn đầu tư công chưa được giao chi tiết cho các dự án

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tổng số vốn đầu tư phát triển nguồn ngân sách nhà nước kế hoạch năm 2020 được Quốc hội thông qua tại Nghị quyết số 86/2019/QH14 ngày 12/11/2019 là 470.600 tỷ đồng, chia ra vốn trong nước là 410.600 tỷ đồng, vốn nước ngoài là 60.000 tỷ đồng; trong đó tỷ lệ vốn đầu tư của các bộ, cơ quan trung ương chiếm 22,9% và vốn đầu tư của các địa phương chiếm 77,1%.

Việc giao kế hoạch đầu tư vốn ngân sách nhà nước năm 2020 khác so với các năm trước. Thủ tướng Chính phủ đã giao kế hoạch đầu tư công vốn ngân sách nhà nước năm 2020 theo tổng mức vốn đã được Quốc hội quyết định cho các bộ, cơ quan trung ương và địa phương, giao một lần toàn bộ kế hoạch vốn trước ngày 30/11/2019. Các bộ, cơ quan trung ương và địa phương phân bổ chi tiết mức vốn kế hoạch đầu tư vốn ngân sách trung ương năm 2020, danh mục, mức vốn bố trí của từng dự án cho các cơ quan, đơn vị trực thuộc và UBND cấp dưới.

Đến nay, đã có 52/53 các bộ, cơ quan trung ương và 63/63 địa phương có phương án phân bổ vốn ngân sách nhà nước năm 2020 cho các đơn vị trực thuộc và UBND cấp dưới, tuân thủ nguyên tắc, tiêu chí, phân bổ vốn đầu tư công quy định tại Luật Đầu tư công và các nghị quyết của Quốc hội về ngân sách nhà nước năm 2020.

Tuy vậy, hiện nay mới có 35 bộ, cơ quan trung ương và 22 địa phương giao chi tiết hết 100% kế hoạch vốn cho các dự án; 6 bộ, cơ quan trung ương và 17 địa phương giao chi tiết trên 90% cho các dự án; còn lại 12 bộ, cơ quan trung ương và 24 địa phương giao chi tiết dưới 90% cho các dự án.

Tổng số vốn ngân sách nhà nước các bộ, cơ quan trung ương và địa phương giao chi tiết cho các dự án đủ điều kiện giải ngân vốn là 443.195,829 tỷ đồng, đạt 94,2% kế hoạch đầu tư vốn được Thủ tướng Chính phủ giao (470.600 tỷ đồng).

Số vốn còn lại chưa giao chi tiết cho các dự án là 27.404,171 tỷ đồng. Số vốn này không lớn, chiếm 5,8% kế hoạch, tuy nhiên trong năm 2020 việc chậm giao chi tiết kế hoạch đầu tư vốn cho các dự án vẫn xảy ra tại một số bộ, cơ quan trung ương.

33 bộ, cơ quan trung ương, 3 địa phương giải ngân dưới 20%

Theo báo cáo của Bộ Tài chính, ước giải ngân 6 tháng đầu năm là 159.397,188 tỷ đồng, đạt 33,9% kế hoạch (cùng kỳ đạt 28,56% kế hoạch Quốc hội giao); trong đó: vốn trong nước là 145.270,055 tỷ đồng (đạt 37,55% kế hoạch), vốn nước ngoài là 7.061,952 tỷ đồng (đạt 12,52% kế hoạch), vốn chương trình mục tiêu quốc gia là 7.065,181 tỷ đồng (đạt 25,85% kế hoạch).

Mặc dù các cấp, các ngành và địa phương đã quyết liệt chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công, số vốn giải ngân tăng so với cùng kỳ năm 2019 song tỷ lệ giải ngân 6 tháng đầu năm vẫn thấp so với yêu cầu.

Thống kê cho thấy chỉ có 3 bộ, cơ quan trung ương và 9 địa phương có tỷ lệ giải ngân trên 50%; 33 bộ, cơ quan trung ương và 3 địa phương có tỷ lệ giải ngân đạt dưới 20%, trong đó có 7 bộ, cơ quan trung ương có tỷ lệ giải ngân đạt dưới 5%.

Chậm giải ngân: 6 nguyên nhân khách quan, 3 nguyên nhân chủ quan

Trong báo cáo gửi chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã trình bày 9 nguyên nhân của tình trạng chậm giải ngân vốn đầu tư công, gồm 6 nguyên nhân khách quan và 3 nguyên nhân chủ quan.

6 nguyên nhân khách quan gồm:

Một là một số bộ, cơ quan trung ương và địa phương chậm ban hành đơn giá, định mức xây dựng cho các công việc đặc thù, chuyên ngành làm cơ sở để xác định tổng mức đầu tư, dự toán xây dựng và quản lý chi phí theo quy định tại Nghị định số 68/2019/NĐ-CP của chính phủ.

Hai là một số quy định giữa Nghị định số 68/2019/NĐ-CP và thông tư hướng dẫn chưa thống nhất nên gây ra vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện dự án, như là quy định về chuyển tiếp. Một số quy định về thủ tục điều chỉnh dự toán tại Nghị định số 68/2019/NĐ-CP được quy định chặt chẽ hơn, như cần phải có ý kiến chấp thuận của người quyết định đầu tư thì chủ đầu tư mới được điều chỉnh dự toán đã gây khó khăn và kéo dài thời gian điều chỉnh.

Ba là quy định về xử lý đất công xen kẹt và tài sản công trong công tác đền bù giải phóng mặt bằng của các dự án đầu tư công.

Bốn là chưa có quy định cụ thể về cơ sở pháp lý, hồ sơ tài liệu cần đảm bảo để cơ quan tài chính thực hiện hạch toán ghi thu ngân sách nhà nước về giá trị tài sản công đối với giá trị tài sản công thanh toán, ghi chi tạm ứng ngân sách nhà nước tương ứng với giá trị tài sản công đã thanh toán để thực hiện dự án BT trong trường hợp chưa phê duyệt quyết toán, trách nhiệm của các bên liên quan khi triển khai thực hiện Nghị định số 69/2019/NĐ-CP ngày 15/8/2019 của chính phủ.

Năm là các dự án sử dụng vốn vay ODA, vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài chịu tác động nặng nề của đại dịch Covid-19 do hầu hết các hoạt động đều gắn với yếu tố nước ngoài từ khâu nhập máy móc, thiết bị cho đến huy động chuyên gia, nhân công, nhà thầu nước ngoài, tư vấn giám sát, thống nhất với nhà tài trợ đối với từng hoạt động và kế hoạch của dự án... nên đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến tiến độ thực hiện của phần lớn các dự án ODA.

Sáu là quy định về điều chỉnh chủ trương đầu tư các dự án ODA tại điều 19 Nghị định số 56/2020/NĐ-CP ngày 25/5/2020 của Chính phủ áp dụng chung cho các dự án ODA đã gây khó khăn và kéo dài thời gian thực hiện thủ tục không cần thiết, đồng thời chưa tính đến những đặc thù cũng như phân loại dự án ODA cần phải điều chỉnh để đơn giản hóa và tạo thuận lợi hơn cho việc điều chỉnh dự án

3 nguyên nhân chủ quan chủ yếu gồm:

Một là công tác lập kế hoạch chưa sát với thực tế và khả năng giao vốn, khả năng giải ngân vốn dẫn đến không phân bổ được hết số vốn kế hoạch.

Hai là công tác tổ chức triển khai thực hiện tại các bộ, cơ quan trung ương và địa phương còn nhiều bất cập; các cấp, các ngành chưa thực sự vào cuộc, vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu chưa được đề cao, chưa rõ nét; công tác tuyên truyền đến người dân về chính sách bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng chưa bảo đảm minh bạch, công bằng; người dân chưa đồng thuận, khiếu kiện về chính sách đền bù, yêu cầu xác định giá bồi thường sát giá thị trường; công tác đôn đốc nhà thầu triển khai thi công chưa quyết liệt và hiệu quả.

Ba là nguyên nhân giải ngân chậm nguồn vốn ODA có nhiều đặc thù, nhiều dự án lớn đang phải thực hiện các thủ tục điều chỉnh chủ trương đầu tư, điều chỉnh hiệp định vay với nước ngoài nên chưa đủ cơ sở pháp lý để triển khai hoạt động, dẫn đến chưa thể lập hồ sơ rút vốn.

Công tác chuẩn bị đầu tư dự án không kỹ dẫn đến chậm thực hiện dự án đã ảnh hưởng lớn đến tiến độ triển khai dự án, phải điều chỉnh lại thiết kế, tăng chi phí, phải tiến hành các thủ tục gia hạn thời gian thực hiện dự án, nhiều dự án không được bố trí vốn đối ứng đầy đủ, kịp thời đã ảnh hưởng đến khả năng hấp thụ, giải ngân vốn nước ngoài…

Tin mới lên