'Thăm' khu đất xây 365 căn nhà ở xã hội ngay trong nội đô Hà Nội
(VNF) - Dự án nhà ở xã hội NO1 thộc Khu đô thị mới Hạ Đình, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân và xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.
Năm 2019, kinh tế thế giới có xu hướng tăng trưởng chậm lại với các yếu tố rủi ro, thách thức gia tăng. Cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung diễn biến khó lường, nguy cơ Brexit không có thỏa thuận kèm theo những bất ổn chính sách trên toàn cầu đã và đang tác động đến niềm tin kinh doanh, tâm lý thị trường tài chính, giảm sút thương mại và đầu tư và từ đó cũng có những ảnh hưởng nhất định đến Việt Nam.
Mặc dù vậy, kinh tế Việt Nam vẫn giữ được sự ổn định trên nhiều mặt và đạt được những kết quả tích cực nhờ khai thác tốt được 3 trụ cột : Vốn, xuất nhập khẩu và cầu trong nước, trong đó thặng dư tài khoản vãng lai nhờ thặng dư thương mại và gia tăng đầu tư nước ngoài cũng như sự phát triển của khu vực tư nhân trong nước và tầng lớp trung lưu là những yếu tố nổi bật.
Bên cạnh đó, lạm phát được kiềm chế dưới mức 3% so với cùng kỳ năm 2018, tỷ giá và mặt bằng lãi suất tương đối ổn định và được xử lý khá linh hoạt theo tín hiệu thị trường, thu ngân sách nhà nước tăng khá, nợ công và bội chi ngân sách được kiểm soát và có xu hướng giảm dần, môi trường đầu tư kinh doanh có sự cải thiện tăng lên 69,8 từ 68,6 điểm của năm ngoái (xếp thứ 70/190)...
Nhờ những kết quả tích cực từ kinh tế vĩ mô và đặc biệt là những cải cách trong quá trình tái cấu trúc thị trường chứng khoán trên cả 4 trụ cột, hàng hóa, nhà đầu tư, tổ chức kinh doanh và hệ thống thị trường, TTCK Việt Nam đã vượt qua những tác động bất lợi của thị trường chứng khoán quốc tế và đạt được những kết quả tốt trên cơ sở các nguyên tắc thị trường và từng bước tiếp cận các chuẩn mực, thông lệ quốc tế.
Chỉ số chứng khoán dù biến động khá mạnh nhưng vẫn ghi nhận sự tăng trưởng cao hơn so nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á, tăng trên 7% so với cuối năm 2018, vốn hóa thị trường cổ phiếu tăng trên 10% so với cuối năm 2018, tương đương 80% GDP, vượt chỉ tiêu Chính phủ đề ra đến năm 2020. Chỉ trong vòng 5 năm, từ con số 1 doanh nghiệp có vốn hóa trên 1 tỷ USD (2014) thì đến nay con số này đã có khoảng 32 doanh nghiệp niêm yết trên 2 Sở GDCK.
Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết trong quý III và 9 tháng đầu năm 2019 có sự cải thiện cả về doanh thu và lợi nhuận, tăng lần lượt 11,1% và 13,3% so với cùng kỳ năm 2018. Tuy nhiên, chi phí lãi vay trong quý III/2019 tăng 15% và chi phí tài chính tăng 2,1%, trong đó ngành bất động sản có chi phí lãi vay và chi phí tài chính tăng cao trong bối cảnh có những điều chỉnh chính sách nhằm tăng cường kiểm soát tín dụng đối với bất động sản.
Thị trường trái phiếu chính phủ (TPCP) phát triển mạnh, với tốc độ tăng trung bình hàng năm trên 26%, với quy mô niêm yết trên 21% GDP, cấu trúc thị trường ngày càng hoàn thiện, hàng hóa được cấu trúc lại với quy mô sản phẩm chuẩn ngày càng lớn hơn với kỳ hạn bình quân dài hơn ( từ 3,18 năm trong năm 2011 lên trên 13,48 năm trong năm 2019), từng bước hình thành đường cong lợi suất chuẩn với kỳ hạn dài từ 5 năm đến 30 năm.
Tỷ trọng giao dịch Repos ngày càng tăng và ngày càng lớn hơn tỷ trọng giao dịch Outright. Đây là chỉ báo cho thấy thị trường có sự tăng trưởng về chiều sâu. Thị trường chứng khoán phái sinh (TTCKPS) mặc dù mới được 2 năm nhưng đã có bước tăng trưởng rất tốt và ổn định với 02 sản phẩm hợp đồng tương lai trên chỉ số cổ phiếu VN30 và hợp đồng tương lai TPCP kỳ hạn 5 năm, góp phần tạo cho nhà đầu tư có thêm nhiều công cụ để đầu tư phòng vệ rủi ro và qua đó tăng tính hấp dẫn cho TTCK nói chung và TTCKPS nói riêng, khối lượng giao dịch bình quân tăng 14% so với bình quân giao dịch năm 2018 và gấp gần 10 lần so với năm 2017.
Dòng vốn của nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) vẫn tiếp tục vào ròng, đạt khoảng 2,7 tỷ USD, thể hiện sự đánh giá lạc quan của cộng đồng nhà đầu tư nước ngoài với thị trường chứng khoán Việt Nam. Về giao dịch của NĐTNN, từ đầu năm đến nay, NĐTNN đã mua ròng 8.860 tỷ đồng cổ phiếu, CCQ và mua ròng 14.379 tỷ đồng trái phiếu.
TTCK cũng tiếp tục khẳng định là kênh huy động vốn quan trọng cho phát triển kinh tế với tổng giá trị huy động ước đạt 302,6 nghìn tỷ đồng, tăng 37,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó huy động trái phiếu Chính phủ và trái phiếu Chính phủ bảo lãnh đạt 204 ngàn tỷ đồng Trong năm 2019, khối doanh nghiệp cổ phần đã huy động ước đạt 98,6 nghìn tỷ đồng. Ngoài ra, kênh huy động trái phiếu doanh nghiệp có sự tăng trưởng mạnh, đạt khoảng 200 ngàn tỷ nhờ những chính sách cải cách của chính phủ, từ đó hỗ trợ và giảm thiểu rủi ro cho kênh tín dụng ngân hàng, đóng góp tích cực cho trụ cột vốn trong tăng trưởng kinh tế năm 2019.
Mặc dù vậy, bên cạnh những kết quả tích cực trên đây, thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn còn những mặt hạn chế, cả về chiều rộng và độ sâu của thị trường. Quy mô thị trường, đặc biệt là thị trường trái phiếu vẫn còn nhỏ so với các nước trong khu vực, số lượng các công ty niêm yết lớn đủ sức hấp dẫn dòng vốn đầu tư nước ngoài còn hạn chế, kênh huy động vốn dài hạn qua TTCK mới chỉ đạt khoảng 50% so với kênh tín dụng ngân hàng, vai trò của thị trường vốn trong việc huy động vốn trái phiếu doanh nghiệp còn hạn chế, việc đóng góp cho lĩnh vực cơ sở hạ tầng hầu như chưa có, các sản phẩm tài chính chưa đa dạng, thanh khoản thị trường có sự giảm sút do tác động của thị trường toàn cầu,giảm 29% so với bình quân năm 2018 và chỉ chiếm khoảng 27% so mức vốn hóa, nhiều doanh nghiệp niêm yết, nhà nước còn nắm tỷ lệ sở hữu lớn và nhiều doanh nghiệp tư nhân, tỷ lệ đại chúng còn thấp dẫn đến tỷ lệ cổ phiếu có khả năng giao dịch chưa cao.
Bên cạnh đó số lượng các tổ chức kinh doanh chứng khoán còn nhiều và quy mô tài chính, năng lực công nghệ còn thấp so với trong khu vực, sự tham gia của nhà đầu tư có tổ chức đặc biệt là các quỹ hưu trí còn hạn chế, chủ yếu là nhà đầu tư cá nhân (trên thị trường cổ phiếu chiếm trên 70% và trên thị trường phái sinh chiếm trên 90%). Tính minh bạch, chất lượng quản trị công ty trên thị trường Việt Nam còn hạn chế so với mặt bằng chung của các nước trong khu vực.
Trên thực tế, các doanh nghiệp trên thị trường kể cả doanh nghiệp niêm yết có quy mô lớn mới chỉ dừng lại ở mức tuân thủ các quy định mà chưa thực sự chủ động hướng tới việc cải thiện chất lượng quản trị công ty để nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, đảm bảo quyền lợi cho các cổ đông.
Năm 2020, nhìn chung kinh tế toàn cầu được dự báo sẽ vẫn trong xu hướng tăng chậm lại mặc dù ngân hàng TW các nước đang nới lỏng chính sách tiền tệ để ngăn chặn đà suy thoái. Thương mại và đầu tư toàn cầu tiếp tục giảm sút và sự dịch chuyển dữ liệu qua biên giới có xu hướng gia tăng. Căng thẳng thương mại cũng như các vấn đề chiến lược khác giữa Mỹ - Trung vẫn là vấn đề lâu dài và sẽ có ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng toàn cầu cũng như TTCK các nước. Nợ toàn cầu tăng lên mức kỷ lục, gần 188 nghìn tỷ USD, tương đương 230% sản lượng kinh tế thế giới, cao hơn 13% so với thời điểm trước khủng hoảng, do các chính sách kích thích kinh tế sau khủng hoảng năm 2008 và sự đầu tư kém hiệu quả, đang đe dọa sự ổn định tài chính toàn cầu.
Năm 2020, Việt Nam vẫn phải nỗ lực thúc đẩy tăng trưởng cao và bền vững, trong bối cảnh còn nhiều khó khăn thách thức: cơ cấu nền kinh tế đã có sự cải thiện nhưng mức độ dịch chuyển còn chậm, năng xuất lao động tăng nhưng vẫn còn chậm cải thiện, phân bổ nguồn lực chưa thực sự hiệu quả, vẫn còn vào nhiều bất động sản, doanh nghiệp vừa và nhỏ còn khó tiếp cận vốn; giải ngân đầu tư công và tiến độ cổ phần hóa còn chậm, tốc độ tăng xuất khẩu có xu hướng chậm lại do tác động của căng thẳng thương mại Mỹ -Trung, nợ công có xu hướng giảm nhưng áp lực trả nợ đang có chiều hướng gia tăng; Ngân hàng cũng đang phải xử lý vấn đề tín dụng bất động sản, xử lý nợ xấu, tăng vốn của các ngân hàng thương mại, sự lên giá của tỷ giá thực và xu hướng tăng mạnh của tín dụng cho vay tiêu dùng…
Bên cạnh những khó khăn, thách thức trên đây, cũng có những cơ hội, những thuận lợi cho Việt Nam trên cả 3 trụ cột cho tăng trưởng: vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt vốn M&A, vốn góp cổ phần vẫn trong xu hướng gia tăng và dịch chuyển vào Việt Nam, vốn huy động qua hình thức trái phiếu doanh nghiệp vẫn tiếp tục tăng, việc chính phủ quyết liệt trong việc giải ngân vốn đầu tư công từ quý VI năm 2019 và sang năm 2020 sẽ góp phần thúc đẩy tiến độ triển khai cơ sở hạ tầng, thúc đẩy tăng trưởng; xuất khẩu tuy còn khó khăn đối với những nhóm hàng, trực tiếp hoặc gián tiếp chịu ảnh hưởng không tốt từ căng thẳng thương mại Mỹ - Trung thì cũng có những nhóm hàng thuận lợi, đặc biệt ngành công nghiệp chế biến, ngoài ra các hiệp định thương mại vừa ký kết được kỳ vọng sẽ mang lại nhiều cơ hội phát triển cho nền kinh tế Việt Nam thông qua việc mở rộng xuất khẩu, đầu tư và ứng dụng khoa học công nghệ; hơn nữa, sự mở rộng nhanh chóng tầng lớp trung lưu (dự báo tăng từ 12 triệu người năm 2011 lên 33 triệu người vào năm 2020) sẽ là động lực gia tăng sức cầu trong nước, thúc đẩy tốc độ đô thị hóa và tăng trưởng.
Trên nền tảng kinh tế vĩ mô như trên, dự báo thị trường chứng khoán sẽ tiếp tục có sự tăng trưởng về quy mô nhờ vào việc thúc đẩy các công ty đã cổ phần hóa, các ngân hàng lên niêm yết. Cấu trúc thị trường sẽ tiếp tục được cải thiện nhờ những chính sách đang triển khai, đặc biệt là việc triển khai luật chứng khoán mới và những cải cách cho việc nâng hạng thị trường. Các doanh nghiệp niêm yết vẫn tiếp tục hưởng lợi nhờ tốc độ tăng trưởng.
Ngoài ra, trong xu thế ngân hàng TW các nước nới lỏng chính sách tiền tệ nhằm hạn chế suy thoái, tiếp tục phát huy tác dụng và ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng có những động thái linh hoạt hơn trong chính sách tiền tệ, mặt bằng lãi suất ổn định và có tín hiệu giảm thì TTCK sẽ có cơ hội phát triển, đặc biệt trong 6 tháng đầu năm 2020.
Ổn định kinh tế vĩ mô, khai thác các động lực tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng cao và bền vững vẫn là đòi hỏi trong năm 2020 và những năm tiếp theo.
Tiếp tục khai thác 3 trụ cột cho tăng trưởng. Trong bối cảnh kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại, áp lực lạm phát cũng giảm bớt, cần tận dụng khoảng thời gian này để nới lỏng chính sách tiền tệ ở mức độ hợp lý, trên cơ sở lạm phát mục tiêu, nới hạn mức tín dụng với những ngân hàng nhóm A, tăng cung tiền thông qua mua ngoại tệ vào, giảm mặt bằng lãi suất hoặc giảm với những lĩnh vực cần ưu tiên.
Một chính sách tiền tệ linh hoạt hơn sẽ thúc đẩy tăng trưởng và gián tiếp hạn chế việc lên giá của tỷ giá thực, bảo đảm sự mất giá của VND trong phạm vi hẹp khoảng 1-1,5% nhằm phòng ngừa tác động xấu đến tỷ giá nếu kinh tế thế giới có biến động. Quyết liệt thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công ngay từ đầu năm, tập trung cho các dự án trọng điểm có sức lan tỏa.
Tận dụng cơ hội từ các hiệp định thương mại, nâng cao năng lực cạnh tranh và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Tích cực khai thác thị trường nội địa, phát triển tầng lớp trung lưu, thúc đẩy tốc độ đô thị hóa và nâng cao hiệu quả kinh tế đô thị; tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài, giảm thiểu thủ tục đầu tư, giải phóng mặt bằng, ưu tiên các dự án sử dụng công nghệ cao, thân thiện môi trường, các nhà đầu tư lớn có chuỗi giá trị toàn cầu, phát triển công nghệ phụ trợ, chuỗi liên kết chuyển giao.
Để duy trì tốc độ tăng trưởng cao và lâu dài, vấn đề trọng tâm là tăng năng xuất lao động, trong đó cốt lõi là tăng năng suất lao động thông qua việc phân bổ lại nguồn lực và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp được đánh giá là yếu tố chủ chốt của việc tăng năng xuất lao động.
Để giải quyết vấn đề này cần tập trung cho các giải pháp: (i) cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, giảm thiểu thủ tục hành chính, xây dựng chính phủ hiệu quả; (ii) Xây dựng hệ thống thị trường hiệu quả theo nguyên tắc thị trường, tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng, hình thành giá cả theo nguyên tắc thị trường, tạo sự minh bạch và phân bổ hiệu quả nguồn lực; (iii) Thúc đẩy cổ phần hóa và phát triển kinh tế tư nhân, tạo môi trường đầu tư kinh doanh bình đẳng, thúc đẩy cạnh tranh từ đó nâng cao đổi mới sang tạo và tăng cường quản trị hiệu quả; (iv) Tăng cường quản trị công ty để tăng sự bền vững và hiệu quả của doanh nghiệp; (v) Thúc đẩy đổi mới sang tạo; (vi) xây dựng hệ thống hạ tầng đồng bộ hiệu quả; (vii) nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Đối với thị trường chứng khoán, cần tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động, tính công khai minh bạch và gia tăng vai trò đóng góp của thị trường trong việc cung ứng vốn dài hạn cho nền kinh tế. Cụ thể:
- Cùng với việc giảm dần tín dụng dài hạn cần khơi thông nguồn vốn dài hạn qua TTCK: a)Tăng cường khả năng tiếp cận vốn qua thị trường chứng khoán bằng cách giảm dần các điều kiện và thay thế dần bằng các yêu cầu công bồ thông tin minh bạch; b)tiếp tục duy trì chính sách hiện nay với việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ theo thông lệ quốc tế, giảm thiểu rủi ro bằng việc tăng cường tính công khai minh bạch trong hoạt động phát hành, giao dịch, kế toán kiểm toán, tăng cường đạo tạo, tuyên truyền và sự tự chịu trách nhiệm của nhà đầu tư, tăng cường tài sản đảm bảo, mở rộng hơn khái niệm nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp theo thông lệ quốc tế và duy trì việc phát hành, giao dịch trái phiếu riêng lẻ trong phạm vi nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, sớm mở thị trường trái phiếu doanh nghiệp để tăng tính thanh khoản, tính minh bạch và khả năng giám sát, phát triển các tổ chức định mức tín nhiệm với số lượng hạn chế nhưng phải thực sự có đủ năng lực và uy tín; c) Mở rộng sự tham gia của thị trường vốn vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng thông qua việc phát hành trái phiếu riêng lẻ cơ sở hạ tầng, trái phiếu công trình ngay từ giai đoạn đầu dự án, thay thế việc thu xếp vốn vay ngân hàng bằng hình thức trái phiếu, mở rộng việc chào bán ra công chúng đối với những công trình đã hoàn thành và hoạt động có hiệu quả, phát triển các quỹ đầu tư thành viên đầu tư cơ sở hạ tầng với những cơ chế thuế ưu đãi và phương thức quản lý thông thoáng với tư cách là quỹ thành viên khác với quỹ đại chúng; Mở rộng vai trò hỗ trợ của TTCK với doanh nghiệp khởi nghiệp, cho phép chào ra công chúng với giới hạn về mức tiền tham gia và số lượng nhà đầu tư nhỏ lẻ tham gia, nghiên cứu triển khai thị trường cho doanh nghiệp khởi nghiệp.
- Đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc TTCK, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế thế giới có thể đi vào suy thoái: a) sớm hoàn tất việc hợp nhất và cấu trúc lại các Sở giao dịch chứng khoán theo Đề án chính phủ đã thông qua, hình thành các thị trường chuyên biệt về cổ phiếu, trái phiếu, chứng khoán phái sinh trên cơ sở thống nhất về công nghệ, tổ chức và hàng hóa; b) Hoàn thiện thị trường trái phiếu chính phủ, công bố thông tin sớm hơn để các nhà đầu tư có đủ thời gian tiên liệu,thu xếp tham gia, phát hành đầy đủ các kỳ hạn để hình thành đường cong lãi suất chuẩn, tăng quy mô phát hành; c) Tiếp tục đa dạng các sản phẩm mới, phát triển thị trường chứng khoán phái sinh, mở rộng sự tham gia của nhà đầu tư có tổ chức, bãi bỏ yêu cầu các ngân hàng muốn tham gia thị trường chứng khoán phái sinh phải có sự chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước, nghiên cứu triển khai thị trường phái sinh với các sản phẩm tiền tệ, hàng hóa có thể chuẩn hóa; d) Nâng cao tỷ trọng nhà đầu tư có tổ chức, phát triển các quỹ hưu trí tự nguyện, tháo gỡ các vướng mắc về thuế đối với loại hình này như nâng mức khấu trừ thuế phần đóng góp vào quỹ, giảm bớt thuế thu nhập từ quỹ; e) Tăng cường tính công khai minh bạch và quản trị công ty với công ty niêm yết, công ty đại chúng, tăng cường công tác đào tạo, tuyên truyền về quản trị công ty, tăng cường tính bắt buộc và giải trình, thiết lập các tiêu chuẩn niêm yết duy trì có các yêu cầu về quản trị công ty…; f) Tích cực triển khai các giải pháp nâng hạng TTCK, thông qua việc đáp ứng các điều kiện nâng hạng để thực hiện các cải cách hướng tới các thông lệ và chuẩn mực quốc tế trên TTCK; g) Tăng cường thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, giảm thiểu các thủ tục mở tài khoản ngoại tệ tại các ngân hàng, đơn giản hóa các yêu cầu ký quỹ tham gia đấu thầu, đấu giá, triển khai cổ phiếu không có quyền biểu quyết, giảm bớt các ngành nghề kinh doanh có điều kiện, cải cách các thủ tục chuyển nhượng vốn ngoài sàn theo các nguyên tắc thị trường…h) thúc đẩy các tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán tăng cường hệ thống công nghệ thông tin, hệ thống bảo mật, kiểm soát sự cố, mở rộng việc số hóa các dịch vụ kinh doanh chứng khoán thông qua việc phối hợp với các tổ chức Fintech; i) Tăng cường khả năng giám sát, phòng ngừa và xử lý sự cố, khả năng chống chịu trước các biến động khó lường của tài chính toàn cầu, chú ý nhiều hơn đến việc tăng cường an toàn tài chính, quản trị rủi ro trong các tổ chức kinh doanh chứng khoán khi kinh tế thế giới đi vào suy thoái.
(VNF) - Dự án nhà ở xã hội NO1 thộc Khu đô thị mới Hạ Đình, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân và xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.