'Muốn đón dòng vốn lớn cần đẩy nhanh cổ phần hoá, niêm yết DNNN'
(VNF) - Đó là đánh giá của ông Nguyễn Minh Hoàng, Giám đốc Phân tích Công ty Chứng khoán Nhất Việt (VFS) tại Diễn đàn Triển vọng thị trường vốn Việt Nam 2026 với chủ đề “Bứt phá trên nền tảng mới” do Hiệp hội Tư vấn Tài chính Việt Nam (VFCA) và Tạp chí Đầu tư Tài chính – VietnamFinance tổ chức.
13h00 chiều 12/12/2025, Hiệp hội Tư vấn Tài chính Việt Nam (VFCA) và Tạp chí Đầu tư Tài chính – VietnamFinance tổ chức Diễn đàn Triển vọng thị trường vốn Việt Nam 2026 với chủ đề “Bứt phá trên nền tảng mới”.
Diễn ra trong bối cảnh Đảng và Chính phủ đang tổng kết Nghị quyết 05-NQ/TW và xây dựng các giải pháp chiến lược hướng tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số, Diễn đàn Triển vọng thị trường vốn Việt Nam 2026 được kỳ vọng trở thành không gian đối thoại cởi mở và thiết thực về định hướng phát triển thị trường vốn Việt Nam trong giai đoạn mới.
Trọng tâm thảo luận của Diễn đàn xoay quanh những động lực then chốt của thị trường vốn, đặc biệt là ba nền tảng mới đã được thiết lập năm 2025, bao gồm: nâng hạng thị trường chứng khoán, khung pháp lý thị trường tài sản số và thể chế dành cho trung tâm tài chính quốc tế.

Tiếp nối sự thành công của năm trước, Diễn đàn Triển vọng thị trường vốn Việt Nam 2026 thu hút sự tham dự của đông đảo đại diện các bộ, ban, ngành trung ương, các nhà hoạch định chính sách, đội ngũ học giả và chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, tài sản số.
Về phía lãnh đạo và nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Diễn đàn có sự hiện diện của ông Nguyễn Đức Hiển, Phó trưởng ban Chính sách, chiến lược Trung ương; TS. Phan Đức Hiếu, Ủy viên thường trực Ủy ban Kinh tế Quốc hội khóa XV; ông Bùi Anh Tuấn, Cục trưởng Cục Phát triển doanh nghiệp tư nhân và kinh tế tập thể (Bộ Tài chính); ông Nguyễn Vinh Quang, Phó viện trưởng Viện Chiến lược Chính sách Kinh tế - Tài chính (Bộ Tài chính);
Ông Bùi Hoàng Hải, Phó chủ tịch Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (Bộ Tài chính); TS Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng BIDV, Thành viên Hội đồng tư vấn Chính sách của Thủ tướng; ông Nguyễn Sơn, Chủ tịch HĐTV Tổng công ty Lưu ký và Bù trừ Chứng khoán Việt Nam (VSDC).
Cùng với đó là các chuyên gia hoạch định chính sách và học giả uy tín trong giới nghiên cứu như: PGS. TS Nguyễn Hồng Sơn, nguyên Phó trưởng ban Chính sách, chiến lược Trung ương; PGS.TS Lê Bộ Lĩnh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược kinh tế, nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội; PGS.TS Nguyễn Văn Thạo, nguyên Phó chánh Văn phòng Trung ương Đảng, nguyên Phó chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương;
PGS. TS Ngô Trí Long, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu thị trường giá cả (Bộ Tài chính); GS.TS Trần Thị Vân Hoa, Nhà giáo nhân dân, nguyên Phó hiệu trưởng Đại học Kinh tế Quốc dân, Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương; TS Nguyễn Văn Bình – Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng trường Học viện Tài chính; PGS.TS Nguyễn Thanh Phương, Phó Giám đốc Học viện Ngân hàng.
Về phía Hiệp hội Tư vấn Tài chính Việt Nam (VFCA), có sự tham dự của TS Lê Minh Nghĩa, Chủ tịch Hiệp hội; ông Hoàng Anh Minh, Phó chủ tịch thường trực Hiệp hội, Tổng biên tập Tạp chí Đầu tư Tài chính - VietnamFinance; PGS.TS Nghiêm Thị Thà, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư kí Hiệp hội.
Đặc biệt là sự góp mặt của đại diện của lãnh đạo các định chế tài chính, quỹ đầu tư và thành viên của thị trường như: ông Phan Đức Trung, Chủ tịch Hiệp hội Blockchain và Tài sản số Việt Nam kiêm Chủ tịch Công ty 1Matrix; bà Lê Vũ Hương Quỳnh, Giám đốc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, Tether; bà Lương Thị Mỹ Hạnh, Giám đốc Quản lý tài sản, Khối trong nước, Dragon Capital Việt Nam; ông Phạm Lưu Hưng, Giám đốc Trung tâm Phân tích và Tư vấn Đầu tư, Công ty Cổ phần Chứng khoán SSI; ông Nguyễn Minh Hoàng, Giám đốc Phân tích Cổ phần Công ty Chứng khoán Nhất Việt.

TS Lê Minh Nghĩa: Ba nền tảng lịch sử cho hội nhập tài chính quốc tế đã sẵn sàng
Phát biểu khai mạc Diễn đàn Triển vọng thị trường vốn Việt Nam 2026, TS Lê Minh Nghĩa – Chủ tịch Hiệp hội Tư vấn Tài chính Việt Nam (VFCA) cho biết năm 2025 sắp khép lại với những dấu ấn lịch sử mà chỉ vài năm trước đây còn được cho là “nhiệm vụ bất khả thi” với 3 nền tảng.
Thứ nhất, thị trường chứng khoán Việt Nam được FTSE Russell nâng từ “thị trường cận biên” lên “thị trường mới nổi thứ cấp”. Thứ hai, Luật Công nghiệp công nghệ số (Luật số 71/2025/QH15), và Nghị quyết 05/2025/NQ-CP sẽ trở thành “cặp đôi” pháp lý chính thức cho thị trường tài sản mã hóa tại Việt Nam.
Thứ ba là Nghị quyết 222/2025/QH15 của Quốc hội về Trung tâm tài chính quốc tế (TTTCQT) tại Việt Nam (hiệu lực từ 1/9/2025) và các nghị quyết, quyết định, nghị định của Chính phủ quy định về: việc thành lập, mô hình tổ chức, cơ chế hoạt động, quản lý, giám sát áp dụng cho TTTCQT tại Việt Nam.
“Ba nền tảng then chốt ấy không còn là 'giấc mơ' nữa, mà đã trở thành hiện thực với khung pháp lý ngày càng vững chắc và quyết tâm chính trị ngày càng cao về hội nhập thị trường tài chính quốc tế của Việt Nam trong kỷ nguyên mới”, TS Lê Minh Nghĩa nhận định.

Câu hỏi đặt ra bây giờ là: Làm sao để chuyển hóa ba nền tảng ấy thành động lực thực chất, giúp Việt Nam huy động được nguồn vốn trung và dài hạn trong nước và quốc tế để hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng hai chữ số, thoát bẫy thu nhập trung bình trong giai đoạn 2026–2030 tầm nhìn đến năm 2045?
Theo TS Lê Minh Nghĩa, Diễn đàn Triển vọng thị trường vốn Việt Nam 2026 được thiết kế không phải để nghe báo cáo thành tích, cũng không phải để “khoe” những gì đã đạt được, mà là để cùng nhau thảo luận, trả lời ba câu hỏi lớn.
Thứ nhất, làm sao để dòng vốn ngoại thu hút vào thị trường chứng khoán đã được nâng hạng không chỉ “đến rồi đi” theo sóng mà ở lại lâu dài, chảy vào sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư công nghệ cao và kinh tế xanh… đưa doanh nghiệp và quốc gia phát triển bền vững?
Thứ hai, làm thế nào để khung pháp lý về tài sản số không chỉ “hợp thức hóa” các nguồn lực vô hình mà thực sự khơi thông một nguồn lực vô cùng tiềm năng, thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước đưa Việt Nam trở thành một trong những trung tâm blockchain và tài sản kỹ thuật số có sức hút mạnh mẽ đối với nhà đầu tư trong khu vực và toàn cầu?
Thứ ba, làm thế nào để TTTCQT không trở thành “ốc đảo”, “hình thức” mà thực sự là trung tâm phát triển dịch vụ tài chính hấp dẫn của các định chế tài chính toàn cầu, là bệ phóng đưa thị trường vốn nội địa lên một tầm cao mới, tạo ra hiệu ứng lan tỏa tới mọi doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam phát triển cùng đất nước trong kỷ nguyên mới?
“Để trả lời được 3 câu hỏi trên, chúng ta cần bộ 3 công cụ: Tư duy mới – Giải pháp mới – Cách làm mới”, TS Lê Minh Nghĩa nhận định.
Tư duy mới là học hỏi kinh nghiệm từ những thành công, thất bại của các TTTCQT, sử dụng cơ chế vượt trội, dám chấp nhận thị trường vốn Việt Nam không chỉ cạnh tranh trong phạm vi ASEAN nữa, mà cạnh tranh sòng phẳng với các TTTCQT của các thị trường tài chính lớn trên toàn cầu như: UAE, Trung Quốc, Anh, Hoa Kỳ.
Giải pháp mới là không copy–paste mô hình cũ, mà phải sáng tạo những công cụ tài chính “Made in Vietnam”: trái phiếu xanh gắn với tín chỉ carbon, tài sản số hóa, token hóa chứng khoán, công cụ tài chính dựa trên blockchain… thu hút các Quỹ đầu tư tư nhân, quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ hưu trí, phòng vệ, quỹ ESG, quỹ xanh... cho các nhà đầu tư tổ chức và cá nhân đầu tư dài hạn, đảm bảo sự ổn định và hấp dẫn của các kênh đầu tư.
Cách làm mới là phân cấp, phân quyền, làm đúng chuẩn quốc tế và làm ngay.
TS Lê Minh Nghĩa cho hay diễn đàn hôm nay quy tụ không chỉ các cơ quan hoạch định chính sách, quản lý mà còn có các định chế tài chính, quỹ đầu tư, doanh nghiệp và giới chuyên gia trong nước và quốc tế…
“Chúng tôi sắp xếp chương trình theo hình thức đối thoại cởi mở, tranh luận thẳng thắn, không có bài phát biểu dài dòng, chỉ có câu hỏi khó và câu trả lời thẳng và thật.
“Tôi mong rằng, từ diễn đàn này cho đến khi chúng ta rời khỏi hội trường không chỉ với một bản tuyên bố chung đẹp đẽ, mà với một khuyến nghị danh sách hành động cụ thể: ai làm gì, làm khi nào, làm với ai, đo lường, đánh giá như thế nào… Chỉ như vậy chúng ta mới xứng đáng với kỳ vọng của hàng triệu doanh nghiệp và nhà đầu tư đang trông chờ thị trường vốn Việt Nam thực sự chuyển động, bứt phá trên nền tảng mới”, TS Nghĩa chia sẻ.
"Cần cung ứng đủ vốn cho doanh nghiệp một cách bền vững"
Ông Nguyễn Đức Hiển, Phó trưởng ban Chính sách, Chiến lược Trung ương, cho biết cơ quan này đang tiếp tục hoàn thiện Đề án về các giải pháp chiến lược nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hai con số trong giai đoạn 2026 - 2030, hướng tới tăng trưởng nhanh và bền vững đến năm 2045. Ban phấn đấu hoàn thành để trình Hội nghị Trung ương 2 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV, dự kiến vào khoảng tháng 2-3/2026. Đi cùng với đó là chương trình hành động của tất cả các bộ, ngành, lĩnh vực.
Theo ông Hiển, xét trên bình diện tổng thể, nguồn lực tài chính cho doanh nghiệp hiện vẫn chủ yếu dựa vào hệ thống ngân hàng. Thị trường chứng khoán, tính đến ngày 30/11/2025, mới đạt quy mô khoảng 81,9% GDP, thấp hơn đáng kể so với mục tiêu đặt ra là 100% GDP. Trong khi đó, thị trường trái phiếu, một công cụ nợ rất quan trọng, nếu huy động tốt sẽ có chi phí vốn rẻ hơn, hiện mới đạt khoảng 23,1% GDP, thấp hơn nhiều so với mục tiêu 47% GDP cũng như so với nhiều quốc gia khác.
Phần lớn nguồn lực tài chính hiện nay vẫn đến từ hệ thống ngân hàng với quy mô tín dụng tương đương khoảng 134% GDP. “Tuy nhiên, bản chất vốn ngân hàng là vốn ngắn hạn, trong khi đang được sử dụng nhiều cho nhu cầu trung và dài hạn. Trong bối cảnh hướng đến tăng trưởng hai chữ số, vấn đề then chốt là làm thế nào để cung ứng đủ vốn cho doanh nghiệp một cách bền vững”, ông Hiển nhấn mạnh.

Phó trưởng ban Chính sách, Chiến lược Trung ương nhận định hệ thống ngân hàng không thể mở rộng mãi, việc tăng cung tín dụng quá mức cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. “Nếu đặt mục tiêu tăng trưởng hai con số nhưng lạm phát cao, thì con số tăng trưởng đó sẽ không còn nhiều ý nghĩa. Thực tế, việc mở rộng tín dụng với tốc độ cao, như năm nay là khoảng 18%, không thể kéo dài liên tục. Vì vậy, nguồn vốn từ thị trường vốn, bao gồm cổ phiếu và trái phiếu, có vai trò đặc biệt quan trọng, thậm chí mang tính sống còn”, ông Hiển nhấn mạnh.
Từ kinh nghiệm quốc tế, cụ thể là Nhật Bản, ông Hiển đã chỉ ra nhiều vấn đề cần thay đổi trong thị trường vốn của Việt Nam.
Thứ nhất, theo ông Hiển, thị trường phải có “hàng hóa”. Với các doanh nghiệp chưa đủ điều kiện niêm yết, trái phiếu là công cụ rất quan trọng, trong đó cần gắn với tài sản bảo đảm. Vấn đề đặt ra là cần sửa đổi các nghị định, quy định như thế nào. Trường hợp không có tài sản bảo đảm thì phải đi kèm xếp hạng tín nhiệm, có sự tham gia giám sát của các hiệp hội. Nếu không, doanh nghiệp sẽ rất khó huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu.
Thứ hai, đối với cổ phiếu, vấn đề sở hữu nước ngoài đã đến lúc cần thay đổi hay chưa, rất cần ý kiến của các chuyên gia. “Ngay cả với các ngân hàng lớn, như nhóm Big4, có cần duy trì tỷ lệ sở hữu nhà nước lớn như hiện nay hay không? Các quy định về sở hữu nước ngoài trong doanh nghiệp Việt Nam cần được điều chỉnh theo hướng nào?”, ông Hiển gợi mở vấn đề.
Thứ ba, về quy định IPO và niêm yết, câu hỏi đặt ra là có cần tiếp tục sửa đổi hay không. Theo ông Hiển, chúng ta đã có những thay đổi nhất định, nhưng trong bối cảnh hướng tới nâng hạng từ thị trường cận biên lên mới nổi, cần phải có nhiều thay đổi hơn nữa.
Bên cạnh đó, vấn đề tài sản số và công nghệ blockchain cũng được Phó trưởng ban Chính sách, Chiến lược Trung ương nhắc đến. “Cách tiếp cận tài sản số, công nghệ blockchain hiện nay là thận trọng, thí điểm theo từng sản phẩm, dịch vụ, ban hành theo khung và định hướng. Tuy nhiên, có những nội dung cần mạnh dạn thí điểm và nhân rộng. Nhìn lại câu chuyện fintech trong hệ thống ngân hàng: từ Nghị quyết 19 đến khi có nghị quyết mới phải mất gần 4 năm. Vậy với tài sản số, lộ trình sẽ ra sao? Mặc dù đã có Nghị quyết 05, nhưng làm thế nào để tiến nhanh hơn là vấn đề cần được bàn thảo”, ông nói.
Về thị trường, theo ông Hiển, cần trao đổi sâu hơn về cách thức duy trì vị thế và nâng cao sức hấp dẫn đối với dòng vốn ngoại. Điều này gắn liền với hạ tầng giao dịch, thanh toán bù trừ, nâng cao chất lượng hàng hóa, cũng như các cơ chế quản trị minh bạch, quản trị công ty, ESG. Các định chế trên thị trường cần có chính sách gì để vận hành thị trường một cách minh bạch và hiệu quả hơn.
Đối với nhà đầu tư, trước hết là các nhà đầu tư thuộc các quỹ có nguồn lực nhà nước, liệu cơ chế vận hành có cần cải tiến hay không? Việc phát triển các quỹ bảo hiểm, quỹ hưu trí tham gia thị trường – với quy mô vốn lớn và tính an toàn cao – là rất quan trọng, đòi hỏi phải thay đổi tư duy để tạo ra dòng tiền ổn định, chất lượng cho thị trường.
Bên cạnh đó, ông Nguyễn Đức Hiển cũng đặt vấn đề liên quan đến trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam. “Về trung tâm tài chính quốc tế, chúng tôi rất mong được lắng nghe ý kiến về thể chế và cơ chế chính sách. Chủ trương là đúng và quyết tâm là rất cao, nhưng nếu không bàn kỹ về cơ chế vận hành cụ thể thì sẽ phát sinh rất nhiều vấn đề”, ông cho hay.
Cuối cùng, về cơ chế chính sách đối với nguồn hàng hóa tiềm năng từ cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước lớn, một nguồn hàng hóa có chất lượng cho thị trường, cần làm gì để các doanh nghiệp này tham gia thị trường một cách hiệu quả hơn. “Chúng ta cần tiếp tục bàn luận để thị trường vốn thực sự hoàn thành sứ mệnh phân bổ vốn cho trung và dài hạn. Nếu không có cách tiếp cận tổng thể, mục tiêu tăng trưởng hai chữ số sẽ rất khó đạt được”, ông nhấn mạnh.
Biến động mạnh khiến chi phí vốn tăng – thị trường cần tái cấu trúc cơ cấu nhà đầu tư
Phát biểu tại Diễn đàn, ông Bùi Hoàng Hải, Phó chủ tịch Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) cho hay năm 2025 ghi dấu một trong những cột mốc quan trong nhất của thị trường chứng khoán Việt Nam khi được FTSE Russell chính thức nâng hạng từ nhóm cận biên lên mới nổi thứ cấp.
Theo ông Hải, đây không chỉ là bước tiến về mặt kỹ thuật, mà quan trọng hơn, là sự ghi nhận của cộng đồng tài chính quốc tế đối với nỗ lực bền bỉ suốt hơn hai thập kỷ của thị trường chứng khoán Việt Nam.
“Việc nâng hạng khẳng định chất lượng, sức hấp dẫn và độ tin cậy của thị trường chứng khoán Việt Nam, đồng thời tạo động lực cho các cải cách sâu rộng hơn nữa. Tuy nhiên, đây mới chỉ là bước khởi đầu và hành trình tiếp theo là nâng cao hiệu quả thị trường chứng khoán, để kênh huy động vốn này đóng góp tích cực hơn, thực chất hơn vào nền kinh tế đất nước”, ông Hải nói.

Theo ông, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, thời gian tới, UBCKNN, Bộ Tài chính sẽ triển khai quyết liệt hơn nữa các chủ trương, chính sách của Nhà nước, nhằm phát triển thị trường chứng khoán an toàn, bền vững, trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn chủ yếu của nền kinh tế và hội nhập với thị trường quốc tế.
“UBCKNN sẽ tập trung tháo gỡ rào cản, gia tăng độ mở của thị trường, đáp ứng các tiêu chuẩn cao hơn nữa của FTSE Russell và MSCI”, ông Bùi Hoàng Hải cho hay.
Một trong những trọng tâm là cơ chế đối tác thanh toán bù trừ trung tâm (CCP) với mục tiêu đưa vào vận hành từ quý I/2027. Cơ chế này sẽ góp phần củng cố niềm tin niềm tin cho nhà đầu tư nước ngoài và nâng cao sức chống chịu cho toàn bộ hệ thống tài chính. “Khi và chỉ khi vận hành đầy đủ cơ chế CCP, chúng ta mới có thể kiểm soát rủi ro hệ thống và hạn chế nguy cơ lan truyền rủi ro trên thị trường chứng khoán”, ông Hải nhấn mạnh.
Phó chủ tịch UBCKNN cũng khẳng định cam kết của cơ quan quản lý trong việc tiếp tục mở rộng khả năng tiếp cận thị trường cho nhà đầu tư nước ngoài, bao gồm việc cho phép giao dịch trực tiếp thông qua các công ty môi giới toàn cầu và hoàn thiện cơ chế kết nối thông tin giữa các tổ chức hạ tầng thị trường. “Chúng tôi không chỉ nói mà đang triển khai quyết liệt”, ông Bùi Hoàng Hải nói và cho hay, mỗi tháng, UBCKNN đều họp với hàng chục nhà đầu tư, định chế đầu tư nước ngoài. Tính trong 7 tháng gần nhất, UBCKNN đã tổ chức 7 cuộc họp để nắm bắt đầy đủ hơn kỳ vọng của thị trường và kịp thời hoàn thiện chính sách.
Về hạ tầng, UBCKNN sẽ tiếp tục hiện đại hóa hệ thống, đảm bảo vận hành ổn định và đáp ứng quy mô giao dịch gia tăng nhanh chóng. Theo ông Bùi Hoàng Hải, trước khi hệ thống KRX vận hành, thanh khoản chỉ ở mức 13.000–14.000 tỷ đồng/phiên với khoảng 500.000–700.000 lệnh mỗi ngày. Nhưng ngay sau khi triển khai KRX, thanh khoản bùng nổ, đạt bình quân hơn 29.000 tỷ đồng/phiên – tương đương hơn 1 tỷ USD – với số lượng lệnh lên tới 3 triệu lệnh/ngày. Điều này đặt ra nhu cầu tiếp tục nâng cấp năng lực xử lý và khả năng chịu tải của toàn hệ thống để theo kịp quy mô ngày càng lớn.
Song song với đó, UBCKNN ưu tiên phát triển các sản phẩm tài chính mới, bao gồm trái phiếu hạ tầng, trái phiếu xanh, thúc đẩy hoạt động chào bán gắn với niêm yết, đồng thời tái cấu trúc cơ cấu nhà đầu tư theo hướng tăng vai trò của nhà đầu tư tổ chức và các định chế chuyên nghiệp.
“Một trong những vấn đề của thị trường chứng khoán thời gian vừa qua là thanh khoản cao nhưng đi kèm mức độ biến động mạnh. Điều này một phần là do số lượng nhà đầu tư cá nhân chiếm tới 85-95% tổng giá trị giao dịch toàn thị trường. Biến động mạnh khiến thị trường bị coi là có rủi ro lớn, bị tính chi phí huy động vốn cao hơn so với các thị trường có biến động rủi ro thấp”, ông Bùi Hoàng Hải nói và nhấn mạnh việc tái cơ cấu nhà đầu tư theo hướng tăng tỷ trọng các định chế đầu tư chuyên nghiệp là chủ trương lớn và cần được đẩy mạnh.
Bên cạnh đó, UBCKNN và Bộ Tài chính sẽ tiếp tục nâng cao năng lực quản lý, giám sát; tăng cường tính minh bạch và kỷ cương thị trường. Ông Hải cho biết cơ quan quản lý khuyến khích các công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp, minh bạch hoạt động, đồng thời đầu tư vào công nghệ và phát triển nguồn nhân lực để cung cấp dịch vụ tốt hơn.
Cùng với tiến trình nâng hạng, năm 2025 cũng đánh dấu bước chuyển quan trọng khi nền móng của thị trường tài sản mã hoá được hình thành và vận hành. Việc Chính phủ ban hành Nghị quyết 05 đã tạo khung pháp lý đầu tiên cho thị trường tài sản mã hoá, mở ra cơ hội để Việt Nam tiếp cận các xu hướng đổi mới của tài chính toàn cầu theo cách chủ động và có kiểm soát. Bộ Tài chính đang phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an, Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan liên quan để xây dựng văn bản hướng dẫn, hoàn thiện cơ chế phối hợp và quản lý thị trường này.
“Việc phát triển thị trường tài sản mã hoá không chỉ dừng ở xây dựng sàn giao dịch, mà còn phải tạo dựng một hệ sinh thái an toàn và hoàn chỉnh, trong đó các tổ chức cung cấp dịch vụ phải đáp ứng yêu cầu cao về năng lực tài chính, công nghệ và quản trị rủi ro; nhà đầu tư cũng phải nâng cao trách nhiệm khi tham gia”, ông Hải nhấn mạnh.
Trong bối cảnh các hành vi lừa đảo và lợi dụng tài sản mã hoá gia tăng, cơ quan quản lý đang triển khai các biện pháp kiểm soát mạnh mẽ. Ông Bùi Hoàng Hải cho biết UBCKNN đã hoàn thành dự thảo nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này; dự kiến hoàn thành thủ tục để trình Chính phủ trong 1, 2 tháng tới.
“Chúng tôi cũng sẽ phối hợp với các bộ, ngành để kiểm soát rủi ro, phòng chống rửa tiền, đảm bảo an toàn và an ninh tài chính. Với cách tiếp cận từng bước nhưng chắc chắn, kỳ vọng thị trường tài sản mã hoá tại Việt Nam sẽ phát triển lành mạnh, phù hợp điều kiện kinh tế và phát huy được tiềm năng”, Phó chủ tịch UBCKNN cho hay.
Ông cũng khẳng định năm 2026 sẽ mở ra giai đoạn phát triển mới, khi thành quả nâng hạng và hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường chỉ số tiếp tục thúc đẩy huy động vốn dài hạn cho nền kinh tế. Bộ Tài chính và UBCKNN cam kết đồng hành cùng các định chế tài chính, doanh nghiệp, nhà đầu tư và cộng đồng chuyên gia trong quá trình hoàn thiện thị trường.
Việt Nam phải đầu tư mạnh vào công nghệ và tái cấu trúc thị trường vốn
TS Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV, Thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách của Thủ tướng, cho rằng mô hình phát triển của Việt Nam trong thời gian tới không chỉ nằm ở tăng trưởng kinh tế, mà còn phải hài hòa với ổn định chính trị, bảo vệ môi trường và nâng cao chất lượng quản trị.
Theo ông, mô hình phát triển mới cần hội tụ bốn điểm chính: (i) tăng trưởng nhanh và bền vững; (ii) chuyển dịch trọng tâm sang năng suất, khoa học – công nghệ; (iii) kết hợp đồng thời ba yếu tố: đầu tư, tiếp thu công nghệ, đổi mới sáng tạo; (iv) huy động và phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả.

Việt Nam muốn phát triển nhanh thì phải đầu tư mạnh mẽ hơn vào khoa học – công nghệ, đồng thời không thể thiếu vai trò của vốn. Theo TS Lực, nhiều nước từng tăng trưởng cao ghi nhận vốn đóng góp tới 40–50%. Việt Nam hiện mới đạt tổng vốn đầu tư toàn xã hội khoảng 33% GDP, trong khi nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế xanh, ứng phó khí hậu và đổi mới công nghệ ngày càng lớn. Bởi vậy, Việt Nam cần có Quỹ khẩn cấp quốc gia và duy trì tốc độ tăng vốn đầu tư khoảng 10% mỗi năm.
Theo TS Lực, Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới trong bối cảnh thế giới tăng trưởng chậm, nhiều rủi ro và bất định. Bên cạnh đó, kinh tế dễ bị tổn thương trước biến động môi trường và chuỗi cung ứng. Hệ thống huy động – phân bổ vốn còn nhiều điểm nghẽn. Các quốc gia đang sử dụng nhiều chính sách tài chính mới, đòi hỏi Việt Nam phải thích ứng nhanh. Tài chính xanh, tài sản số… cũng đặt ra những yêu cầu hoàn toàn mới.
Trong giai đoạn 2026 - 2030 và hướng đến 2045, vốn nhà nước giảm dần, vốn tư nhân tăng mạnh lên khoảng 57%, FDI đóng góp 16 - 17%. Việt Nam cần đẩy nhanh tốc độ tăng vốn, hướng tới mức tăng trưởng vốn 13- 15% như các nền kinh tế Đông Á thời kỳ cất cánh. Tuy nhiên, thị trường vốn hiện còn nhỏ: vốn cổ phiếu chỉ chiếm 10% GDP (năm cao nhất đạt 24%), ngân hàng vẫn cung ứng tới 40% vốn cho nền kinh tế. Trong khi đó, tiết kiệm của người dân khá cao đạt 37% (dù vẫn thấp hơn Trung Quốc 46%) nhưng môi trường đầu tư chưa thật sự thông thoáng khiến dòng tiền chưa chảy mạnh vào sản xuất, đổi mới.
Quy mô tài chính của Việt Nam tăng khá nhanh trong 16 năm qua, nhưng rủi ro liên thông giữa các thị trường vẫn lớn. Hệ thống ngân hàng chiếm tỷ trọng cao, còn thị trường vốn và các định chế phi ngân hàng phát triển chưa tương xứng. Ngoài ra, những vấn đề như an ninh dữ liệu, hạ tầng tài chính, báo cáo theo chuẩn quốc tế, giáo dục tài chính và bảo vệ người tiêu dùng tài chính… vẫn còn hạn chế.
Đáng chú ý, có hơn 2.700 dự án đang bị vướng mắc, làm “đóng băng” một lượng vốn rất lớn. Cùng với đó là thất thoát do tham nhũng, lãng phí và xu hướng đầu cơ vàng – bất động sản.
TS Lực đề xuất: Hoàn thiện thể chế, phát triển thị trường vốn cân bằng hơn và giảm phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng; sớm vận hành thị trường carbon, thúc đẩy thị trường tài sản số, tăng minh bạch thị trường; duy trì ổn định vĩ mô để dòng vốn chuyển từ đầu cơ sang sản xuất.
Song song với đó là cải thiện thủ tục hành chính và nâng cao năng lực quản lý tài chính theo chuẩn quốc tế; thành lập các quỹ mới như quỹ chuyển đổi xanh, quỹ đổi mới sáng tạo, quỹ đầu tư mạo hiểm; xây dựng một chiến lược tổng thể về huy động, phân bổ, sử dụng nguồn lực.
Hoàn thiện hạ tầng thị trường chứng khoán, tiến tới các tiêu chuẩn quốc tế cao hơn
Nhìn lại năm 2025, ông Nguyễn Sơn – Chủ tịch HĐTV Tổng công ty Lưu ký và Bù trừ Chứng khoán Việt Nam (VSDC) nhấn mạnh tới hai bước phát triển quan trọng của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Thứ nhất là việc hệ thống công nghệ thông tin mới (KRX) chính thức vận hành sau 5-7 năm chuẩn bị, cung ứng các tiện ích, dịch vụ cho thị trường chứng khoán. Thứ hai là sự kiện FTSE Russell công bố nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam từ cận biên lên mới nổi thứ cấp, dự kiến sẽ qua một kỳ review vào tháng 3/2026 để chính thức bước lên vị thế mới vào tháng 9/2026.
“Sau 25 năm vận hành thị trường, 30 năm thành lập cơ quan quản lý, chúng ta đã đi một thị trường sơ khai sang cận biên và chuẩn bị sang bước thứ ba là gia nhập nhóm thị trường mới nổi. Chúng ta đã có 5-7 năm có lộ trình chuẩn bị để đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật của FTSE Russell. Đây là bước đầu tiên để chúng ta tiến lên bước tiếp theo tiên tiến của mới nổi và sau đó là chuẩn cao hơn của MSCI. Việc hệ thống KRX đi vào vận hành và FTSE Russell nâng hạng thị trường chứng khoán là hai nền tảng cơ bản để năm 2026 bứt phá, đúng như tên diễn đàn hôm nay, 'Bứt phá trên nền tảng mới'”, ông Nguyễn Sơn khẳng định.

Chủ tịch VSDC cho hay hệ thống KRX vận hành ổn định, an toàn, thông suốt từ tháng 5/2025 giúp hiện đại hóa hạ tầng giao dịch, thanh toán, lưu ký, đáp ứng yêu cầu của thị trường khi gia tăng quy mô, đồng thời mở ra cơ hội để phát triển các sản phẩm, dịch vụ mới. Hiện tại, VSDC đang hướng tới nâng cấp và tăng hiệu năng của hệ thống, vì đây là nền tảng được xây dựng từ khá lâu.
Theo ông Nguyễn Sơn, quy mô giao dịch của thị trường chứng khoán Việt Nam là khoảng 1,5 tỷ USD/phiên. So với các nước trong khu vực, độ sâu của thị trường tương đối tốt. Tốc độ mở rộng nhanh của thị trường đòi hỏi phải tiếp tục nâng cấp năng lực xử lý để đáp ứng nhu cầu trong giai đoạn tới.
Ông cho hay, Việt Nam hiện có hơn 11,6 triệu tài khoản chứng khoán – vượt mục tiêu 11 triệu tài khoản Chính phủ đặt ra cho năm 2030. Riêng tài khoản phái sinh đạt khoảng 2,5 triệu. Trên một thị trường hơn 80 triệu dân, đây là mức độ tham gia rất cao. Tuy nhiên, điểm yếu là có tới khoảng 90% tài khoản thuộc về nhà đầu tư cá nhân, thiếu đi các định chế đầu tư đầu tư chuyên nghiệp.
“Vừa rồi, Bộ Tài chính đã phê duyệt đề án tái cấu trúc cơ sở nhà đầu tư và phát triển ngành quỹ, hướng tới nhà đầu tư chuyên nghiệp chiếm 20-30%. Bởi lẽ, nếu chỉ dựa vào nhà đầu tư cá nhân, dưới tác động của rủi ro liên quan tới tâm lý rủi ro và tài chính hành vi thì thị trường sẽ biến động lớn”, ông Nguyễn Sơn đặt vấn đề.
Về hạ tầng, Chủ tịch VSDC cho hay thị trường chứng khoán Việt Nam đang hướng tới hệ thống thanh toán chuẩn mực, đó là cơ chế thanh toán đối tác bù trừ trung tâm (CCP). Đây là nội dung đã được luật hoá trong Luật Chứng khoán 2019 và trong Luật Chứng khoán sửa đổi mới đây.
“Dự kiến, vào quý I/2027, chúng tôi sẽ vận hành CCP”, ông Nguyễn Sơn nói và cho hay cơ chế này đã được áp dụng đối với thị trường phái sinh, trong khi thị trường cơ sở vẫn đang vận hành theo cơ chế bù trừ đa phương.
Theo ông Sơn, hệ thống này đòi hỏi một pháp nhân độc lập và VSDC sẽ thành lập công ty con và cấp tài sản riêng, đứng ra làm đối tác với cả bên mua và bên bán, chịu trách nhiệm về rủi ro với các nhà đầu tư. Trong lộ trình báo cáo với Bộ Tài chính và UBCKNN, VSDC đã chuẩn bị cho sự ra đời của pháp nhân này và làm việc với nhà thầu cũng như quỹ liên quan về phòng vệ rủi ro.
Chủ tịch VSDC cũng cho hay thị trường đã kỳ vọng rất lâu vào những sản phẩm mà gói thầu công nghệ đã thiết kế như giao dịch chứng khoán xuyên trưa, kéo dài thời gian giao dịch sau giờ cho nhà đầu tư chuyên nghiệp, thực hiện các cơ chế tổ chức giao dịch trong phiên mở cửa với các sản phẩm gắn IPO với niêm yết và xa hơn các sản phẩm phái sinh, bán khống.
Tuy nhiên, việc triển khai bất kỳ sản phẩm nào cũng phải gắn với năng lực quản trị rủi ro và nền tảng hệ thống của tất cả thành viên thị trường – không chỉ riêng Sở Giao dịch hay Trung tâm Lưu ký. Các cơ chế xử lý như sell-out, buy-in, biện pháp cưỡng chế, hay xử lý giao dịch lỗi (fail trades) đều phải được áp dụng đầy đủ. Việc đưa sản phẩm mới ra thị trường phải có lộ trình, phù hợp với khả năng hấp thụ và kỳ vọng của nhà đầu tư.
Về câu chuyện nâng hạng thị trường chứng khoán, ông Nguyễn Sơn nhấn mạnh đây là không phải “đích đến” mà là điểm khởi đầu. Nâng hạng nghĩa là thị trường phải đáp ứng bộ tiêu chuẩn kỹ thuật của các tổ chức xếp hạng. Khi đã đạt chuẩn, nhiệm vụ tiếp theo là duy trì và từng bước vượt lên mức cao hơn. Ông cảnh báo bài học nhãn tiền từ nhiều thị trường bị hạ hạng cho thấy hệ quả lớn nhất là dòng vốn rút đi đáng kể.
Liên quan đến câu chuyện này, Chủ tịch VSDC cho rằng cho rằng cần tháo gỡ các rào cản kỹ thuật và pháp lý theo tiêu chuẩn của chứng khoán toàn cầu, các global brokers.
Một vấn đề cần lưu ý là nâng cấp hệ thống STP – nền tảng chuyển mạch nghiệp vụ giữa ngân hàng lưu ký, tổ chức giám sát nước ngoài và công ty chứng khoán trong nước để tăng cường khả năng tương tác, giao thức kết nối. “Đây là những việc phải làm ngay trong 6 tháng cuối năm nay, đầu năm tới và cả giai đoạn sau nâng hạng. Đừng nghĩ rằng lên thị trường mới nổi là vốn sẽ tự động chảy vào ào ào”, ông Nguyễn Sơn nhấn mạnh.
Theo ông, vấn đề then chốt hiện nay là nguồn hàng. Nếu không có hàng hoá mới, không có doanh nghiệp mới IPO gắn với niêm yết, không rút ngắn chu kỳ niêm yết, không có trái phiếu công trình, trái phiếu xanh, hoặc thiếu vắng các doanh nghiệp FDI niêm yết thì “5 năm, 10 năm hay 20 năm nữa cũng khó mà hút thêm vốn”.
“Việc khối ngoại bán ròng khoảng 11 tỷ USD cũng đặt ra câu hỏi quan trọng: Vì sao vốn rời khỏi Việt Nam? Các công cụ phòng vệ rủi ro – không chỉ của Bộ Tài chính mà cả của Chính phủ – cần được thiết kế phù hợp với bối cảnh biến động tỷ giá, bởi nhà đầu tư hiện vẫn thiếu các sản phẩm hedging chuyên biệt”, ông Sơn nói thêm.

Chủ tịch VSDC khẳng định khi các nút thắt hạ tầng được giải quyết, dòng vốn sẽ tự động tìm đến Việt Nam, đặc biệt từ châu Âu. Một trong những yếu tố góp phần hỗ trợ là cơ chế omnibus trading account, giúp nhà đầu tư quốc tế – theo nguyên tắc của các định chế châu Âu – có thể tiếp cận thị trường Việt Nam thuận tiện hơn.
Với câu chuyện tăng trưởng vốn, ông Nguyễn Sơn cho rằng, hai yếu tố quan trọng là vốn và công nghệ. Theo ông, trong kỷ nguyên số, hai yếu tố này gắn bó chặt chẽ với nhau, bởi công nghệ sẽ tạo ra sự đột phá rất nhanh. Các doanh nghiệp hàng đầu thế giới trước đây không được đánh giá là có khả năng bứt phá mạnh, nhưng chỉ trong 5–7 năm đã vươn lên đứng top toàn cầu nhờ năng lực công nghệ, đặc biệt trong các lĩnh vực nền tảng và hạ tầng số. Điều đó cho thấy sự thay đổi mang tính căn bản của mối quan hệ giữa vốn và công nghệ, cũng như yêu cầu mới đặt ra đối với thị trường vốn.
Từ góc độ của cơ quan vận hành hạ tầng thị trường, ông cho biết VSDC nhận thức rõ xu thế này. Nhiều nước trong khu vực đã ứng dụng công nghệ blockchain, IoT vào hoạt động lưu ký, bù trừ và thanh toán. Ông chia sẻ rằng tại Diễn đàn Hợp tác Tài chính Toàn cầu G20 vừa tổ chức tại Busan vừa qua, các quốc gia đều đề cập sâu về việc áp dụng AI và blockchain trong quản lý tài chính. Đây là những định hướng công nghệ mà theo ông, Việt Nam cần chuẩn bị cho giai đoạn 2026–2030.
Ông cũng lưu ý rằng hạ tầng thị trường vốn không chỉ gồm cổ phiếu hay trái phiếu chính phủ mà phải mở rộng sang nhiều thị trường khác. Chẳng hạn, đối với thị trường trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ, trước đây chúng ta xem đây là công cụ huy động vốn trực tiếp giữa tổ chức phát hành và nhà đầu tư chuyên nghiệp, nhưng cơ chế pháp lý chưa đủ chặt, dẫn tới hệ luỵ là tăng trưởng nóng. Hiện nay, cơ quan quản lý đang tái thiết lập khung pháp lý chặt chẽ hơn, đồng thời xây dựng cơ chế giao dịch – thanh toán thực chất để bảo đảm kiểm soát rủi ro và hỗ trợ thị trường sơ cấp phát triển bền vững.
Bên cạnh đó, Bộ Tài chính và UBCKNN đang được giao xây dựng thị trường giao dịch tín chỉ carbon. Dự thảo nghị định đang trình Chính phủ và nếu được ban hành, cơ chế thí điểm có thể triển khai trong năm 2026, trước khi vận hành chính thức vào các năm 2027–2028. Đây là nhóm sản phẩm đòi hỏi nghiên cứu kỹ lưỡng, cùng hệ thống công nghệ tương thích với hoạt động của Bộ Nông nghiệp và Tài nguyên, khi các đơn vị đăng ký sản phẩm, sao cho phù hợp với yêu cầu về lưu ký, thanh toán.
Ông Sơn cho biết thêm, Bộ Tài chính và UBCKNN đang nghiên cứu xây dựng thị trường phái sinh mới, đặc biệt là sản phẩm hợp đồng tương lai dựa trên giá vàng khu vực. Việt Nam hiện chưa có thị trường vàng thứ cấp chính thức nhưng đang hướng tới sự ổn định của thị trường này. Vì vậy, cần thiết xây dựng một công cụ phái sinh theo các yêu cầu từ quản lý rủi ro đơn giản nhất cho đến phức tạp nhất. Do chưa có thị trường vàng, Việt Nam sẽ tham khảo thị trường giao dịch sôi động nhất tại châu Âu hoặc khu vực như London và Thượng Hải để lấy giá vàng phù hợp với múi giờ của mình để xây dựng sản phẩm.
“Đây là sản phẩm phái sinh tương tự các chỉ số hiện nay, về lâu dài có thể mở rộng sang các quyền chọn phụ thuộc vào mức độ kiểm soát rủi ro”, Chủ tịch VDSC nói và cho hay đây là những điều đã được xây dựng trên nền tảng hệ thống công nghệ KRX.
Theo ông, kinh nghiệm quốc tế cho thấy nhiều mô hình sàn giao dịch tài sản mới – bao gồm cả mô hình cộng đồng huy động vốn – tiềm ẩn rủi ro lớn nếu quản trị không tốt. Việt Nam từng chứng kiến nhiều hình thức huy động thiếu minh bạch trong lĩnh vực bất động sản. Do đó, xây dựng hành lang pháp lý, cơ chế giám sát và quản trị rủi ro là yêu cầu bắt buộc.
Bên cạnh đó, việc giao dịch tài sản mã hóa trong bối cảnh Việt Nam hiện nay cần được tiếp cận thận trọng, có lộ trình rõ ràng. Đây là nhiệm vụ Chính phủ giao cho ngành tài chính và UBCKNN, còn VSDC với vai trò vận hành hạ tầng sẽ tiếp tục chuẩn bị nền tảng công nghệ để đáp ứng những yêu cầu mới của thị trường.
Phát triển tài sản số: Không thể để "mỗi bên chạy một kiểu"
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang hướng tới các mục tiêu tăng trưởng cao, nhu cầu về vốn đầu tư cho hạ tầng và phát triển là vô cùng lớn. Để giải quyết được bài toán này, Chính phủ đang đặt ra nhiệm vụ đi tìm các động lực tăng trưởng mới, trong đó có tài sản số.
Chia sẻ tại Diễn đàn, ông Phan Đức Trung, Chủ tịch Hiệp hội Blockchain và Tài sản số Việt Nam kiêm Chủ tịch Công ty 1Matrix, nhận định: “Việt Nam đang dần hình thành khung pháp lý cho một lớp tài sản mới, đó là tài sản số. Đây được xem là động lực mới cho nền kinh tế, với sự chuyển dịch mạnh mẽ từ khung pháp lý đến hạ tầng công nghệ”.

Theo ông Trung, hành trình hoàn thiện khung pháp lý của tài sản số tại Việt Nam đã có những bước tiến rõ rệt. Cột mốc quan trọng nhất là Nghị quyết 57-NQ/TW lần đầu tiên đưa công nghệ blockchain vào nghị quyết, từ đó mở đường sự ra đời của các văn bản hành pháp tiếp theo.
Hiện nay, khung pháp lý về tài sản số đang tiếp tục được định hình rõ nét qua Luật Công nghiệp Công nghệ số (dự kiến có hiệu lực từ 1/5/2026) và Nghị quyết 05/2025/NQ-CP về thí điểm sàn giao dịch tài sản mã hóa.
Điểm đột phá trong Luật Công nghiệp Công nghệ số là việc lồng ghép tài sản số vào Bộ luật Dân sự, phân tách rõ ràng hai loại hình dựa trên mục đích sử dụng và công nghệ. Trong đó, tài sản ảo được tham chiếu theo Quyết định 194 (về danh sách xám/phòng chống rửa tiền) còn tài sản mã hóa được tham chiếu để ứng dụng cho khu vực khởi nghiệp sáng tạo và định hướng công nghệ.
Trong khi đó, Nghị quyết 05 đã lập ra hành lang pháp lý, giống như một “chợ” với 5 sàn giao dịch thí điểm, với quy mô vốn khoảng 10.000 tỷ đồng mỗi sàn. Ủy ban Chứng khoán Nhà nước nhiều khả năng sẽ ưu tiên các loại tài sản an toàn, điển hình là xu hướng token hóa tài sản thực (Real World Assets - RWA), trong khi các mô hình rủi ro hơn như quỹ ETF hay phái sinh có thể chưa được áp dụng ngay.
Ở cấp độ địa phương, Đà Nẵng đang đi đầu với các chính sách từ Nghị quyết 136, cho phép thí điểm chuyển đổi dòng tiền tài sản mã hóa và tạo ra cơ chế sandbox sáng tạo, một bước đi được so sánh với các chính sách tiên tiến của Thái Lan.
Tuy nhiên, ông Trung thừa nhận, những thay đổi trên mới chỉ ở cấp độ hành lang pháp lý. Để tài sản số, tài sản mã hóa thực sự trở thành nguồn vốn cho nền kinh tế, Việt Nam vẫn còn rất nhiều việc phải làm.

Đi sâu vào phân tích, đại diện 1Matrix nhận định sự khác biệt giữa tài sản số và tài chính truyền thống không chỉ nằm ở tên gọi mà còn ở bản chất công nghệ vận hành. “Nếu như trong chứng khoán truyền thống, hệ thống khớp lệnh (matching engine) hoạt động giống như một GPU thì blockchain hoạt động giống như CPU. Các hệ thống hiện đại cần tách biệt hai phần này: khớp lệnh liên tục xử lý riêng và việc ghi nhận kết quả (settlement) được thực hiện trên blockchain”, ông nói.
Bên cạnh đó, thị trường tài sản số hoạt động không ngừng nghỉ (24/7). Khác với ngân hàng tính lãi theo tháng/năm, tài sản số có thể tính lãi theo từng phút, tạo ra sự thay đổi lớn về tính thanh khoản và dòng tiền.
Về xu hướng token hóa, ông Trung cho hay, dự báo đến năm 2030, khoảng 10% GDP toàn cầu (tương đương 16.000 tỷ USD) sẽ được token hóa. Các tổ chức tài chính lớn như JPMorgan, HSBC hay Ngân hàng Công thương Trung Quốc (ICBC) đều đang ứng dụng blockchain sâu vào hệ thống lõi (core banking) để tăng tốc độ xử lý lên hàng trăm nghìn giao dịch mỗi giây.
Ngoài ra, theo ông Trung, thị trường tài sản số đã bước qua giai đoạn sơ khai (với sự sụp đổ của các "thiên tài" trẻ tuổi như vụ việc FTX) để tiến tới sự tham gia của các định chế tài chính chuyên nghiệp. “Năm 2023, năm sụp đổ của nhiều 'thiên tài' do nguyên nhân chính là nhà đầu tư tài chính nhảy vào quá nhanh, chú ý nhiều đến pháp lý mà coi nhẹ công nghệ, dẫn tới hệ lụy rất lớn. Tuy nhiên, đến nay, thị trường đang trưởng thành và thúc đẩy một quá trình khác: trước đây khớp lệnh một lần/ngày; có ETF thì khớp theo phiên; còn token thì không còn giờ mở cửa, chạy liên tục”, ông cho hay.
Một xu hướng đáng chú ý là sự áp đảo của Stablecoin (đồng tiền ổn định) so với các loại tài sản khác trong việc hoán đổi và lưu trữ giá trị, thậm chí đang được ưa chuộng hơn các dự án tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương (CBDC) do lo ngại về quyền riêng tư.
Tại Việt Nam, dòng tiền liên quan đến tài sản số rất lớn nhưng chưa được thống kê chính thức vào động lực kinh tế. Việt Nam liên tục nằm trong top 10 thế giới về chấp nhận tài sản mã hóa, với lực lượng lớn nhân sự làm việc tự do (freelancer) sẵn sàng nhận thù lao qua các kênh này.
Tuy nhiên, ông Trung thừa nhận, những thay đổi trên mới chỉ ở cấp độ hành lang pháp lý. Để tài sản số, tài sản mã hóa thực sự trở thành nguồn vốn cho nền kinh tế, Việt Nam vẫn còn rất nhiều việc phải làm.
Mặc dù pháp lý đang đi đúng hướng, nhưng công nghệ và nguồn nhân lực lại là những khoảng trống lớn. Ông Trung dẫn chứng, các vụ hack sàn giao dịch (như tại Hàn Quốc) không chỉ do lỗi phần mềm mà còn do lỗ hổng mô hình toán học, cho phép tin tặc giải mã hành vi mà không cần biết khóa bảo mật. Chưa kể, lưu ký tài sản số khác hoàn toàn lưu ký chứng khoán truyền thống. Nó bao gồm cả lưu ký "off-chain" (ngoài chuỗi) và "on-chain" (trên chuỗi).
“Hiện tại, chưa có sàn giao dịch nào tại Việt Nam thực sự sở hữu đủ nhân lực và công nghệ để đảm bảo an toàn cho nghiệp vụ lưu ký phức tạp này”, ông chia sẻ.
Theo ông Trung, việc hình thành khung pháp lý cho tài sản số và thí điểm các sàn giao dịch là bước đi chiến lược để Việt Nam huy động nguồn vốn mới. Tuy nhiên, để hiện thực hóa mục tiêu này một cách an toàn và hiệu quả, bên cạnh hành lang pháp lý (Nghị quyết 05, Luật Công nghiệp Công nghệ số), Việt Nam cần tập trung giải quyết bài toán thiếu hụt nhân lực chất lượng cao và đầu tư nghiêm túc vào hạ tầng công nghệ bảo mật, đặc biệt là công nghệ lưu ký.
“Tài sản số là một nguồn lực tiềm năng rất lớn, nhưng để đưa vào phục vụ mục tiêu phát triển, chúng ta cần giải quyết đồng thời rất nhiều vấn đề. Thách thức lớn nhất là làm sao đồng bộ giữa các vấn đề nhân lực - công nghệ - khung pháp lý - tuân thủ. Đồng bộ ở đây nghĩa là chúng ta phải giải bài toán một cách tổng thể, đồng thời. Tôi hay dùng một hình ảnh: đã có một dây chuyền sản xuất giày thì không thể 'mỗi bên chạy một kiểu', bên trái làm theo một hướng, bên phải làm theo hướng khác, rồi chờ xem bên nào thành công. Như vậy, sẽ rất lãng phí nguồn lực”, ông ví von.
Phát huy vai trò của quỹ đầu tư để bứt phá trong kỷ nguyên phát triển mới
Phát biểu tại Diễn đàn, bà Lương Thị Mỹ Hạnh, Giám đốc Quản lý tài sản, Khối trong nước, Dragon Capital Việt Nam, cho rằng đất nước ta đang ở trong giai đoạn đặc biệt của kỷ nguyên phát triển mới. Việt Nam đang đứng trước cánh cửa “có một không hai”, hội tụ đủ thiên thời địa lợi nhân hòa, có nền kinh tế mở, dân số vàng, tài nguyên con người, và đặc biệt là tư duy.
“Bản thân đặc thù công việc của chúng tôi phải theo dõi sát sao các động thái của chính phủ. Có lẽ chưa bao giờ chúng tôi thấy tư duy đổi mới và mong muốn phát triển đến từ lại giao thoa như bây giờ”, bà Hạnh chia sẻ.

Theo bà Hạnh, bất lợi duy nhất của Việt Nam hiện tại có lẽ là về mặt thời gian. Đến năm 2039 chúng ta bắt đầu bước vào giai đoạn dân số già, trong khi đó mục tiêu là năm 2045 trở thành nước có thu nhập cao. “Thời gian còn lại không dài, nếu trong khoảng thời gian đó mà chúng ta không đạt được mục tiêu thì sẽ cực kỳ uổng phí thời cơ”, bà Hạnh nhận định.
Theo bà Hạnh, để đạt được mục tiêu tăng trưởng nhanh và bền vững như chủ đề của Diễn đàn, thì cần phát huy vai trò của các quỹ đầu tư trong việc phát triển thị trường vốn.
Quỹ đầu tư có nhiều vai trò, nhưng 3 vai trò rất quan trọng. Thứ nhất, quỹ đầu tư có vai trò như một ống dẫn nước, dẫn những đồng tiền tiết kiệm ngắn hạn trở thành nguồn vốn sản xuất cho các doanh nghiệp.
Thứ hai, quỹ đầu tư là quỹ dài hạn, không giống như dòng vốn ngắn hạn dễ đảo chiều. Quỹ đầu có chiến lược dài hạn nên có thể giúp doanh nghiệp đổi mới sản xuất, nâng cao lực cạnh tranh. Đây là quy luật, là công thức bất biến tại nhiều nước phát triển khác. Quỹ đầu tư sẽ giúp giảm áp lực cho ngân hàng, và giảm áp lực cho vốn vay nước ngoài.
“Vai trò thứ ba ít được nhắc đến của các quỹ đầu tư đó là nó giúp thúc đẩy chuẩn mực quản lý doanh nghiệp”, bà Hạnh chia sẻ. Các quỹ đầu tư thường yêu cầu minh bạch, trách nhiệm giải trình và quản lý rủi ro cao. Những điều này tạo động lực và sức ép giúp doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn, đạt được chuẩn cao hơn, nâng cao niềm tin của nhà đầu tư trong và ngoài nước. Về điểm này, các quỹ hữu trí vì có nguồn vốn dài hạn nên có thể đóng vai trò dẫn dắt trong việc phân phối vốn vào các lĩnh vực đổi mới sáng tạo, sạch, xanh, từ đó mới định hình được cái cấu trúc kinh tế trong tương lai.
Theo bà Hạnh, trong kỷ nguyên phát triển, nhu cầu về vốn là rất lớn, vốn phải là yếu tố đi đầu. Tuy nhiên, thị trường vốn tại Việt Nam vẫn còn mỏng. Nền kinh tế phụ thuộc quá lớn vào hệ thống ngân hàng, với dư nợ tín dụng hơn 134% GDP cuối năm 2024. Hơn 20 năm qua, số quỹ đầu tư hiện tại tại Việt Nam đã tăng lên khoảng 100 quỹ. Về quy mô thì con số này vẫn còn khá khiêm tốn.
“Tôi hay nói vui với mọi người về con số của quỹ đầu tư ở Việt Nam được tượng trưng bởi hai con số 1”, bà Hạnh chia sẻ. Con số 1 thứ nhất đó là tổng quy mô các quỹ đầu tư chưa đến 1% GDP - chỉ khoảng 30 tỷ USD. Con số 1 thứ hai đó là số lượng nhà đầu tư tham gia vào quỹ đầu tư, chứng chỉ quỹ chỉ khoảng đầu đó là 1 triệu nhà đầu tư. Đây là những con số khá khiêm tốn, so với các thị trường khác trong khu vực như Ấn Độ, Thái Lan (hơn 20%). Trong khi đó, quy mô dân số hay mức độ tiết kiệm của người dân Việt Nam không thua kém.
“Chúng ta hướng đến năm 2030 tổng vốn của các quỹ đầu tư chiếm khoảng 5% GDP, tính ra là tăng trưởng khoảng 10 lần trong vòng 5 năm. Đây là con số rất tham vọng, nhưng theo tôi đáng để chúng ta suy nghĩ và hướng đến”, bà Hạnh nói.
Theo bà Hạnh, một trở ngại khác đó là kênh phân phối bị hạn chế bởi rào cản pháp lý. Hiện tại, ngân hàng thương mại chưa được phép trực tiếp phân phối chứng chỉ quỹ.
Điểm hạn chế khác cũng là điểm khá phổ biến tại nhiều nước trên thế giới, đó là tư duy đầu tư còn ngắn hạn, mạng tính đầu cơ hơn là tích trữ tài sản. Hiện tại phần lớn người dân khi đầu tư vào các quỹ thì thời gian nắm giữ chỉ khoảng hơn 1 năm, và mọi người thường hay so sánh với lãi suất ngân hàng.
Tại các nước trên thế giới, quỹ hưu trí là những quỹ đầu tư lớn nhất, đóng vai trò rất quan trọng. Nhưng tại Việt Nam, các quỹ hưu trí vẫn đang ở giai đoạn sơ khai, hạn chế. Hiện tại sau 8 năm ra đời về mặt pháp lý thì quy mô quỹ hưu trí chỉ chưa tới 2.000 tỷ, chưa tới 30.000 nhà đầu tư tham gia. Điều này có nghĩa các quy hưu trí chưa đạt được vai trò đóng góp về mặt an sinh xã hội. Vì vậy, nếu chúng ta không có bước chuyển mình mạnh mẽ thì sẽ khó mà xây dựng được một nền tảng vốn nằm để phục vụ mục tiêu bứt phá trong vòng 10 - 20 năm tới.
Về mặt giải pháp, bà Hạnh cho rằng nên tập trung vào nguồn vốn trong nước - đang còn để ngỏ và rất dồi dào. Nguồn vốn trong dân hiện tại rất dồi dào nhưng đang bị ngắn hạn, vậy thì câu hỏi hiện tại là làm sao để nó trở nên dài hạn. “Điểm đầu tiên tôi nghĩ là chúng ta cần chính sách ưu đãi thuế mạnh mẽ hơn, nhằm khuyến khích thay đổi hành vi đầu tư của người dân. Điểm này được ghi nhận ở tất cả các thị trường bao gồm Thái Lan, Ấn Độ, Đài Loan”, bà Hạnh nói.
Thuế là điểm rất quan trọng, nếu được ưu đãi về thuế sẽ giúp thay đổi hành vi đầu tư của người dân. Đề xuất cụ thể là cần xem xét miễn thuế thu nhập cá nhân đối với các khoản đầu tư dài hạn.
Giải pháp thứ hai là mở rộng kênh phân phối, tháo gỡ các rào cản pháp lý để trao vai trò lớn hơn cho các ngân hàng thương mại về quỹ đầu tư. Theo quy định hiện tại, các ngân hàng thương mại không được trực tiếp phân phối các sản phẩm quỹ. Nếu được tháo gỡ rào cản, người dân có thể tiếp cận sản phẩm quỹ dễ dàng hơn. Quỹ đầu tư từ thị trường ngách trở thành 1 kênh tài sản chính thống phổ biến.
Giải pháp thứ ba là cần hoàn thiện khung pháp lý cho quỹ hưu trí – tiệm cận thông lệ quốc tế. Quỹ hưu trí nếu được phát triển tại Việt Nam thì sẽ có thể đóng vai trò tốt hơn trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho người lao động, đặc biệt là thành phần lao động không chính thức tại Việt Nam.
Về điểm này, bà Hạnh cho rằng quỹ hưu trí cần được phép đầu tư theo hướng đa dạng hơn để tăng khả năng cạnh tranh (hiện tại các quỹ hưu trí phải duy trì tỷ lệ trái phiếu chính phủ cao).
“Giải pháp cuối cùng, mà tôi vô cùng đồng tình với các diễn giả hôm nay, đó là cần triển khai chương trình giáo dục tài chính cấp quốc gia nhằm nâng cao tư duy tài chính của người dân. Tư duy là điểm mấu chốt quan trọng nhất”, bà Hạnh nhận định. Nếu người dân không hiểu về đầu tư, về tài chính thì họ sẽ không bao giờ hành động đúng được. Khảo sát cho thấy nhận thức về tài chính, tiết kiệm, đầu tư của người dân Việt Nam còn ở mức rất thấp trên thế giới. Chúng ta có thể triển khai giáo dục về tài chính từ các cấp học tiểu học, trung học, cấp 3. Hiện tại đa số trường quốc tế có chứ trường công chưa có các chương trình này.
“Vai trò của báo chí, truyền thông trong việc tuyên truyền cũng rất lớn. Chẳng hạn như Tạp chí Đầu tư Tài chính VietnamFinance có thể đóng vai trò trong vấn đề này”, bà Hạnh chia sẻ.
PHIÊN THẢO LUẬN CỦA DIỄN ĐÀN TRIỂN VỌNG THỊ TRƯỜNG VỐN VIỆT NAM 2026
Tiếp nối Diễn đàn, PGS.TS Nghiêm Thị Thà, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Tư vấn Tài chính Việt Nam (VFCA), chủ trì phiên thảo luận chuyên sâu với sự tham gia của các chuyên gia, đại diện các cơ quan quản lý nhà nước, đại diện doanh nghiệp, các quỹ và nhà đầu tư.
Trọng tâm thảo luận xoay quanh ba vấn đề lớn.
Đầu tiên, làm thế nào để đưa thị trường vốn Việt Nam về trạng thái cân đối, đáp ứng các chỉ tiêu đã được đặt ra tại Quyết định 368, theo đó: giá trị vốn hóa thị trường đạt 100% GDP vào năm 2026 và 120% GDP vào cuối năm 2030.
Thứ hai, làm thế nào để thị trường tài sản mã hóa có thể thúc đẩy, khơi thông dòng vốn còn rất tiềm năng nhưng đang tiềm ẩn trong nền kinh tế trong nước cũng như trên thị trường quốc tế, qua đó nâng cao chất lượng dòng vốn cho thị trường vốn trong kỷ nguyên mới.
Thứ ba, làm thế nào để Trung tâm Tài chính Quốc tế của Việt Nam thực sự trở thành điểm đến hấp dẫn, có khả năng thu hút và giữ chân dòng vốn quốc tế một cách bền vững.

Vốn không chỉ là tài chính
Phát biểu tại phiên thảo luận, GS.TS Lê Bộ Lĩnh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Kinh tế, nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, nhận định cho đến nay, vốn vẫn là yếu tố đóng góp chủ yếu cho tăng trưởng kinh tế. Dự báo giai đoạn 2030 - 2045, nhu cầu về vốn sẽ rất lớn. Tuy nhiên, vốn ở đây không chỉ là vốn tài chính, mà còn bao gồm vốn con người, vốn xã hội.
Theo ông Lĩnh, khi nói về tiến trình phát triển, không thể tách rời vấn đề hội nhập. Tuy Việt Nam có nền kinh tế mở, nhưng hội nhập tài chính vẫn chưa được bàn sâu; trong khi đây là yếu tố then chốt để nâng cao năng lực cạnh tranh và phát huy tiềm năng phát triển.
Thứ hai, việc xây dựng một trung tâm tài chính quốc tế đòi hỏi phải phát triển các kênh tài chính mới: tài sản mã hoá, các sản phẩm tài chính sáng tạo, đặc biệt là những tài sản gắn liền với cuộc cách mạng khoa học – công nghệ.
Thứ ba, trung tâm tài chính quốc tế phải đi kèm với thể chế phù hợp với chuẩn quốc tế, áp dụng các biện pháp, khung khổ pháp lý tiên tiến. Thậm chí, Quốc hội có thể thành lập tòa án chuyên biệt để xử lý các vấn đề tài chính quốc tế.
Hiện nay, Chính phủ phải hoàn thiện hệ thống nghị định để trung tâm tài chính quốc tế dự kiến từ 19/12 có thể chính thức vận hành. Chúng ta cần hoàn thành 8 nghị định. Ban chỉ đạo cần hoạt động quyết liệt hơn. Việc thành lập trung tâm này sẽ là bước đột phá cho tăng trưởng kinh tế, gắn liền với khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo, qua đó hình thành vai trò quan trọng cho Việt Nam trên bản đồ tài chính khu vực.

Theo ông Lĩnh, năm ngoái, có câu hỏi đặt ra rằng liệu Việt Nam có thể đạt tăng trưởng 8% như Chính phủ đề xuất hay không?
"Tôi cho rằng có thể đạt được. Nhiều nguồn lực vẫn chưa được khai thông, đặc biệt là đầu tư tư nhân - một khu vực có tiềm năng rất lớn. Nghị quyết 68 đã mở đường cho kinh tế tư nhân, tạo điều kiện giải phóng nhiều nguồn vốn đang 'tắc nghẽn' trong dân. Nếu khu vực tư nhân được khai mở mạnh mẽ, chúng ta có cơ sở để kỳ vọng vào giai đoạn 2026 và những năm tiếp theo, hướng tới mục tiêu tăng trưởng cao", ông nói.
Bốn trọng tâm để hoàn thiện thị trường tài sản mã hoá
Từ ngày 1/1/2026, Luật Công nghiệp Công nghệ số và Nghị quyết 05/2025/NQ-CP về triển khai thí điểm thị trường tài sản mã hóa sẽ trở thành “cặp đôi” pháp lý chính thức cho thị trường tài sản mã hóa tại Việt Nam. Điều này đặt ra nhu cầu sớm hoàn thiện những quy định pháp lý cụ thể để thị trường tài sản mã hóa có thể sớm vận hành.

Nói về vấn đề này, bà Lê Vũ Hương Quỳnh, Giám đốc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương của Tether cho rằng có bốn trọng tâm quan trọng Việt Nam cần ưu tiên hoàn thiện sớm để thị trường tài sản mã hóa có thể vận hành hiệu quả và đóng góp tích cực cho tăng trưởng kinh tế.
Thứ nhất, Việt Nam cần tăng cường độ rõ ràng của khung pháp lý và cơ chế vận hành. Theo đại diện Tether, Việt Nam đã có Nghị quyết 05 về thí điểm thị trường tài sản mã hóa và Nghị quyết 22 về Trung tâm Tài chính Quốc tế, trong đó cho phép thí điểm các cơ chế liên quan đến tài sản mã hóa. Tuy nhiên, theo quan sát, vẫn còn những điểm chưa rõ ràng trong cách thức vận hành.
“Nhiều doanh nghiệp và nhà đầu tư mà chúng tôi trao đổi vẫn còn mơ hồ trước các câu hỏi cơ bản, chẳng hạn: stablecoin – một loại tài sản mã hóa có quy mô lưu hành lớn và là trụ cột của thị trường – hiện được phân loại như thế nào, được niêm yết và giao dịch ra sao trên các sàn giao dịch tài sản mã hóa”, bà Quỳnh dẫn chứng.
Tiếp đến là các vấn đề liên quan đến tiêu chuẩn của tổ chức lưu ký, nhà cung cấp dịch vụ tài sản mã hóa, cũng như cơ chế cấp phép cho các nền tảng token hóa và hạ tầng on-chain. Khi các câu hỏi này được làm rõ, thị trường sẽ có nền tảng vững chắc hơn để phát triển.
Bà Quỳnh dẫn chứng, thực tế cho thấy, các quốc gia sau khi minh bạch hóa và làm rõ khung pháp lý đều thu hút mạnh dòng vốn và tổ chức tham gia. Ví dụ, tại Nhật Bản, sau khi làm rõ các định nghĩa pháp lý vào năm 2023, chỉ trong vòng 12 tháng đã có hơn 54 định chế tài chính tham gia thị trường tài sản mã hóa. Tương tự, Dubai và Abu Dhabi sau Covid-19 đã chủ động thay đổi chiến lược phát triển, không chỉ dựa vào dầu mỏ và du lịch. Khi ban hành khung pháp lý rõ ràng và cơ chế mở cho tài sản mã hóa, họ đã thu hút nhiều doanh nghiệp chuyển trụ sở đăng ký từ Hong Kong và Singapore sang khu vực UAE.
Một vấn đề quan trọng khác là xây dựng sự liên thông giữa hạ tầng ngân hàng và blockchain. Đại diện Tether cho hay Việt Nam đã đạt tỷ lệ thanh toán không tiền mặt tại đô thị trên 70%, tuy nhiên hệ thống ngân hàng và các nền tảng blockchain hiện vẫn vận hành như hai hệ sinh thái song song, chưa thực sự kết nối. Trong khi đó, các quốc gia đi đầu như Singapore và Hong Kong đã giải quyết vấn đề này bằng cách tích hợp trực tiếp các đối tác on-ramp/off-ramp, cho phép chuyển đổi liền mạch giữa tài sản mã hóa và tiền pháp định ngay trong hệ thống ngân hàng. Điều này tạo ra dòng chảy thông suốt cho thanh toán quốc tế, thương mại dịch vụ và kiều hối.
“Như các chuyên gia đã chia sẻ, kiều hối và tài trợ thương mại có thể trở thành động lực tăng trưởng rất lớn cho Việt Nam. Khi tạo được sự liền mạch giữa hệ thống ngân hàng, mạng lưới tiếp cận người dùng và hệ thống phân phối, đây sẽ là cách thức giúp bứt phá tăng trưởng trong các dòng tiền kiều hối và tài trợ thương mại”, bà nói.
Dẫn chứng thêm, đại diện Tether chỉ ra dòng vốn tài sản mã hóa đang chảy mạnh từ Mỹ Latin và châu Phi về Hong Kong. Nguyên nhân là nhiều doanh nghiệp tại Trung Quốc và châu Á khi xuất khẩu hàng hóa sang các khu vực này, các đối tác nhập khẩu ngày càng có xu hướng thanh toán bằng tài sản mã hóa. Trong khi đó, doanh nghiệp tại Việt Nam và Đài Loan hiện chưa có khung pháp lý cho phép nhận thanh toán bằng tài sản mã hóa để hợp thức hóa hồ sơ kế toán và pháp lý. Vì vậy, các trung gian tại Hong Kong và Singapore đang đứng ra nhận tài sản mã hóa từ bên nhập khẩu, sau đó phát hành LC và thanh toán cho bên xuất khẩu bằng USD.
“Nếu Việt Nam không sớm mở cửa, toàn bộ giá trị gia tăng này sẽ nằm ngoài lãnh thổ và doanh nghiệp Việt Nam không hưởng được lợi ích”, đại diện Tether nhấn mạnh.
Ngoài ra, hoàn thiện cơ chế thanh khoản thị trường cũng là một yêu cầu quan trọng không kém. “Thanh khoản là yếu tố sống còn để thị trường tài sản mã hóa vận hành trơn tru. Với Nghị quyết 05, theo chúng tôi cần có hướng dẫn cụ thể hơn về việc các sàn giao dịch trong nước được phép tương tác với thanh khoản quốc tế như thế nào, vai trò và mô hình hoạt động của nhà tạo lập thị trường, cũng như cơ chế đánh giá rủi ro khi kết nối với sàn giao dịch nước ngoài hoặc các pool thanh khoản quốc tế”, bà nói.

Đại diện Tether cũng mong muốn thấy cơ chế quản lý rõ ràng đối với hoạt động thanh toán xuyên biên giới liên quan đến tài sản mã hóa, nhằm đảm bảo an toàn và tuân thủ.
Điểm cuối cùng là cần tăng cường bảo vệ nhà đầu tư và minh bạch thông tin. Theo bà Quỳnh, Việt Nam đang có một cơ hội rất lớn để xây dựng ngay từ đầu một thị trường tài sản số sạch, minh bạch và dễ giám sát. Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia và doanh nghiệp đi trước – những thị trường đã vận hành hơn 10 năm – để chọn lọc các yếu tố mang lại giá trị và điều chỉnh phù hợp với điều kiện trong nước.
"Thông qua việc áp dụng tiêu chuẩn báo cáo, công bố thông tin và giám sát theo thời gian thực, kết hợp các giải pháp truy vết giao dịch phi pháp trên blockchain, Việt Nam hoàn toàn có thể xây dựng một thị trường tài sản số minh bạch, thậm chí minh bạch hơn cả thị trường truyền thống”, Giám đốc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, Tether nhấn mạnh.
Tether hiện là đơn vị phát hành stablecoin USDT lớn nhất thế giới, với quy mô phát hành khoảng 185 tỷ USD, phục vụ hơn 500 triệu người dùng toàn cầu. Ở thời điểm hiện tại, Tether có cơ hội làm việc với hàng triệu doanh nghiệp cũng như hơn 50 cơ quan quản lý và thực thi pháp luật trên toàn thế giới.
Tether đã có cơ hội làm việc trực tiếp với chính quyền TP. HCM và Đà Nẵng. Đơn vị đã ký biên bản ghi nhớ với IFC Canada, và khoảng hai tuần trước. Tether cũng là một thành viên nòng cốt tham gia Liên minh Kinh tế On-chain Toàn cầu, được ra mắt tại Diễn đàn Kinh tế TP. HCM dưới sự chỉ đạo của thành phố. Đây được kỳ vọng là một trong những liên minh đầu tiên hình thành dưới khuôn khổ IFC TP. HCM, tập trung phát triển các nền tảng và ứng dụng liên quan đến tài sản mã hóa trong trung tâm tài chính.
Nhà đầu tư toàn cầu đang chờ gì ở Việt Nam?
Trả lời cho câu hỏi, sau nâng hạng, phản ứng của các nhà đầu tư quốc tế ra sao và những yêu cầu để duy trì vị thế “thị trường mới nổi”, ông Phạm Lưu Hưng, Giám đốc Trung tâm Phân tích và Tư vấn Đầu tư, Công ty Cổ phần Chứng khoán SSI nhấn mạnh, sự khẳng định của các bên liên quan rằng “nâng hạng chỉ là điểm khởi đâu” không chỉ là lời “nói suông”.
Vị chuyên gia cho hay, điều mà các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm nhất là Việt Nam sẽ làm gì tiếp theo để duy trì động lực tích cực này.

Về sự tiếp nhận của nhà đầu tư nước ngoài với thông tin nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam, ông Phạm Lưu Hưng cho hay phản ứng của nhà đầu tư quốc tế thời gian qua là minh chứng rõ ràng nhất. Nếu như mọi năm, lượng nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam vào đầu năm nhiều hơn cuối năm thì năm nay thị trường chứng khoán xu hướng ngược lại. Ngay sau khi kết quả nâng hạng thị trường chứng khoán được công bố, lượng nhà đầu tư quốc tế đến Việt Nam tăng mạnh từ rất nhiều nguồn, đặc biệt là các brokers lớn từ Mỹ. Nhiều quỹ từng rút khỏi thị trường từ giai đoạn trước nay đã quay trở lại khảo sát cơ hội.
“Điều mà họ quan tâm nhất là sau FTSE Russell, liệu Việt Nam có tiếp tục tiến tới nâng hạng theo MSCI hay không?”, ông Hưng đặt vấn đề. Theo vị chuyên gia, MSCI có tới 18 tiêu chí khi xét nâng hạng thị trường chứng khoán và Việt Nam đã đạt được 10 tiêu chí. “Việc triển khai CCP sẽ giải quyết được nhiều vấn đề trong số 8 tiêu chí còn lại. Yêu cầu lớn nhất cần giải quyết là vấn đề về room ngoại (tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài – PV)”, ông Phạm Lưu Hưng nói.
Về vấn đề này, kinh tế trưởng SSI cho hay, UBCKNN đã thu gọn danh sách ngành nghề kinh doanh có điều kiện để tạo điều kiện cho sự tham gia của dòng vốn ngoại. Ông cũng cho biết room ngoại ở Việt Nam, ngay cả khi chưa áp dụng biện pháp cải cách mạnh, đã đạt quy mô hơn 90 tỷ USD, cao hơn các thị trường trong khu vực.
Ông Phạm Lưu Hưng cũng đề cập tới một điểm mà nhiều người cho là điều kiện nhạy cảm: tự do hoá thị trường ngoại hối. Theo vị chuyên gia, thực tế không phải quốc gia nào được nâng hạng cũng đáp ứng tiêu chí này. Những thị trường như Ấn Độ, Đài Loan, Indonesia hay Philippines đều chưa hoàn toàn tự do hóa, cho thấy đây không phải yêu cầu buộc phải triển khai một cách tuyệt đối.

Về phía doanh nghiệp niêm yết, ông Hưng nhấn mạnh việc chuẩn bị không chỉ dừng ở nâng chuẩn quản trị, minh bạch thông tin hay nâng cấp hoạt động IR. Quan trọng hơn, doanh nghiệp phải sẵn sàng đáp ứng chuẩn mực cao hơn của thị trường mới nổi, đặc biệt là minh bạch dữ liệu và khả năng tương tác với nhà đầu tư quốc tế.
Bên cạnh đó, vị chuyên gia cũng đề cập tới việc đào tạo nhà đầu tư như một vấn đề quan trọng cần thực hiện để duy trì động lực của thị trường chứng khoán. “Nhà đầu tư nội vẫn là động lực của thị trường chứng khoán do đó cần được trang bị kiến thức và công cụ phù hợp”, ông Hưng nói.
Chẳng hạn, năm ngoái, Dragon Capital có một chương trình phối hợp khá hiệu quả với Sở Giao dịch Chứng khoán TP. HCM trong việc đào tạo nhà đầu tư. Các công ty chứng khoán, trong đó có SSI, đều rất mong muốn thời gian tới Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội và các đơn vị liên quan có thể tiếp tục phối hợp mở rộng những chương trình này.
Giải quyết “cục máu đông” đất đai thúc đẩy cổ phần hóa
Ông Nguyễn Minh Hoàng, Giám đốc Phân tích Công ty Chứng khoán Nhất Việt (VFS) cho biết, từ góc nhìn thị trường, dòng vốn sắp tới mà Việt Nam có thể đón nhận là rất lớn. Tuy nhiên, một vấn đề quan trọng là liệu thị trường có đủ “hàng hóa” để hấp thụ lượng vốn này hay không.

Khi nhìn lại tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong các giai đoạn 2016–2020, 2021–2023 và 2024–2025, tiến độ vẫn còn khá chậm, thậm chí chậm hơn so với nhu cầu của Chính phủ và nhu cầu vốn của thị trường. Nguyên nhân cơ bản có thể chia thành ba nhóm chính.
Thứ nhất, vấn đề đất đai và tài sản cố định, hay còn gọi là “cục máu đông”, là rào cản lớn nhất, chiếm khoảng 70% các doanh nghiệp nhà nước gặp khó khăn khi cổ phần hóa. Thứ hai, tâm lý và trách nhiệm của người quản lý; các cán bộ liên quan thường e ngại khi thực hiện cổ phần hóa, lo ngại rủi ro và trách nhiệm. Thứ ba, xung đột lợi ích cục bộ trong doanh nghiệp nhà nước cũng khiến tiến trình cổ phần hóa khó khăn hơn.
Trong bối cảnh này, nhiều doanh nghiệp tư nhân đã cổ phần hóa thành công qua IPO trong năm 2025 nhờ mô hình kinh doanh rõ ràng và khả năng xử lý tài sản minh bạch. Điển hình là ACV, với hai yếu tố nổi bật. Thứ nhất, ngân hàng đã tách được vấn đề đất đai ra khỏi doanh nghiệp, đặc biệt là những phần liên quan đến hạ tầng công như sân bay, đường băng. Việc này giúp định giá minh bạch và tránh rủi ro thất thoát tài sản công. Thứ hai, mô hình kinh doanh của ACV rõ ràng, đơn giản, nguồn thu chủ yếu từ hoạt động cốt lõi, ít công ty con phức tạp. Tài sản lịch sử được xử lý minh bạch, giảm tranh chấp pháp lý và giúp huy động vốn cho các dự án lớn của Chính phủ như sân bay Long Thành.
Ngược lại, VNPT gặp khó khăn lớn hơn do cơ cấu đất đai phức tạp, với hơn 2.000 vị trí trên toàn quốc, nhiều vị trí trung tâm và mục đích sử dụng khác nhau, chưa thực sự minh bạch. Việc định giá và tách tài sản trở nên khó khăn, dẫn đến đình trệ.

Từ hai ví dụ trên, có thể rút ra ba điểm quan trọng. Thứ nhất, giải quyết “cục máu đông” đất đai là yếu tố then chốt. Thứ hai, minh bạch trong cơ cấu tài sản giúp nhà đầu tư yên tâm và thúc đẩy cổ phần hóa. Thứ ba, tâm lý và trách nhiệm của người thực thi cần được bảo vệ, tạo vùng an toàn để họ dám quyết định và thực hiện cổ phần hóa.
Ngoài ra, các doanh nghiệp tư nhân lớn như VPBank hay một số công ty chứng khoán đã chuẩn hóa mô hình tăng trưởng từ trước, hoạt động bài bản, giúp dòng vốn chảy vào hiệu quả và ổn định.
Tuy nhiên, theo ông Hoàng, thị trường vẫn mất cân đối khi các ngân hàng và tập đoàn lớn như Vingroup chiếm trọng số quá lớn, ảnh hưởng đến cơ chế huy động vốn. Do đó, việc huy động hàng hóa trên thị trường cần được đẩy nhanh và mạnh mẽ hơn, đồng bộ với chu kỳ vốn và tiến trình cổ phần hóa, để tạo đà phát triển bền vững cho thị trường, đồng thời giúp Việt Nam tận dụng tối đa dòng vốn lớn sắp tới.
Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và IPO doanh nghiệp FDI: Thận trọng quá hoá... lỡ nhịp
Theo ông Nguyễn Sơn, Chủ tịch VSDC, để thị trường chứng khoán Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới sau nâng hạng, điều cốt lõi là phải khơi thông nguồn hàng và hoàn thiện cơ chế huy động vốn.
Vị lãnh đạo này đánh giá, trong vòng 3 năm trở lại đây, quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và IPO của doanh nghiệp FDI đã chững lại rõ rệt. Nguồn hàng chất lượng cao gần như không xuất hiện, trong khi những “tên tuổi lớn” từng tạo sức hút mạnh mẽ cho thị trường như FPT hay Vinamilk đã là những câu chuyện từ cách đây rất lâu.
Về nguyên nhân, theo Chủ tịch VSDC, những vấn đề liên quan đến khung pháp lý, đặc biệt là đất đai và định giá doanh nghiệp, chỉ là một phần. “Đẩy nhanh tiến độ là cần thiết, nhưng nhanh quá thì lại rủi ro”, ông Sơn nói. Theo ông, thực tế thị trường 3-5 năm qua cho thấy sự thận trọng thái quá cũng khiến thị trường mất đi nhiều cơ hội.
Theo ông, thực tế thị trường 3-5 năm qua cho thấy sự thận trọng thái quá cũng khiến thị trường mất đi nhiều cơ hội.

Vấn đề thứ hai là IPO doanh nghiệp của FDI. Ông cho hay, năm 2003, Chính phủ đã có nghị định thí điểm chuyển đổi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang công ty cổ phần. Khi đó, Việt Nam mới chỉ có hai luật – Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Đầu tư – nhưng cơ chế thí điểm vẫn tạo điều kiện cho nhiều doanh nghiệp FDI lên sàn. Không ít doanh nghiệp sau cổ phần hóa đã trở thành doanh nghiệp 100% vốn trong nước, như trường hợp doanh nghiệp mía đường Thành Thành Công.
Tuy nhiên, sau giai đoạn thí điểm thành công, hoạt động này gần như bị tạm ngưng. Ông Sơn cho rằng đã đến lúc cần khởi động trở lại, thay vì quá lo ngại về chuyện chuyển giá. “Nhà đầu tư đủ tỉnh táo để định giá doanh nghiệp. Không phải doanh nghiệp FDI cứ lên sàn là ai cũng mạnh tay mua”.
Chủ tịch VSDC cũng đề xuất xây dựng cơ chế để các doanh nghiệp chào bán trái phiếu ra công chúng. Hiện nay, các đợt huy động chủ yếu thông qua phát hành riêng lẻ cho nhà đầu tư chuyên nghiệp. Nếu mở rộng kênh chào bán công khai, doanh nghiệp sẽ có thêm lựa chọn vốn, còn thị trường sẽ có thêm hàng hóa mới, phong phú hơn.
Về hạ tầng thị trường, ông Nguyễn Sơn cho rằng cần điều chỉnh một số cơ chế để tăng hiệu ứng đòn bẩy: giao dịch trong ngày, bán chứng khoán chờ về, cũng như phát triển thêm các sản phẩm tài chính và mô hình quỹ như quỹ hưu trí tự nguyện, quỹ mở, quỹ đóng… nhằm tăng chiều sâu và khả năng hấp thụ vốn của thị trường.
Ông đặc biệt nhấn mạnh vai trò của các quỹ đầu tư trong thu hút nhà đầu tư cá nhân, nhất là khi hiệu suất của nhiều quỹ sau đại dịch Covid-19 vượt trội so với việc tự đầu tư của cá nhân.
Theo chỉ đạo của Bộ Tài chính, từ năm 2026 sẽ bắt đầu áp dụng hệ thống đánh giá hiệu quả quỹ đầu tư theo chuẩn quốc tế nhằm vinh danh những quỹ hoạt động tốt trong nhiều năm liên tiếp. Ông Sơn kỳ vọng động thái này sẽ thu hút thêm nhà đầu tư cá nhân – những người có nhu cầu đầu tư gián tiếp nhưng thiếu thời gian hoặc kỹ năng phân tích chuyên sâu.
Thị trường chứng khoán Việt Nam cần minh bạch, đa dạng sản phẩm
Ông Bùi Hoàng Hải, Phó chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, đã chia sẻ nhiều góc nhìn quan trọng về phát triển thị trường chứng khoán, đặc biệt là câu chuyện kết nối nhà đầu tư, cân đối ngân hàng và phát triển các quỹ đầu tư.
Theo ông, đây là một quá trình phức tạp, bởi thị trường chứng khoán không chỉ đòi hỏi các sản phẩm tài chính đa dạng, mà còn cần phải có sự tham gia và hiểu biết của nhà đầu tư.
Trước hết, về cơ cấu nhà đầu tư, ông nhấn mạnh rằng việc thu hút các nhà đầu tư tổ chức, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài, là rất quan trọng. Điều này không chỉ giúp tăng tính thanh khoản cho thị trường, mà còn nâng cao chất lượng các sản phẩm tài chính. Tuy nhiên, để đạt được điều đó, cơ chế, chính sách liên quan đến quỹ đầu tư cần được phát triển và hoàn thiện.
Cụ thể, các quỹ đầu tư hiện nay phải được tạo điều kiện để phát triển tự nhiên, thông qua các chính sách ưu đãi về thuế. Nếu quỹ và nhà đầu tư cùng bị đánh thuế, hiệu quả đầu tư sẽ giảm, gây cản trở cho việc huy động vốn. Vì vậy, ông Hải nhấn mạnh việc xây dựng chính sách hỗ trợ mạnh mẽ, để các quỹ đầu tư có thể phát triển bền vững.

Một vấn đề khác mà ông nêu ra là nguồn hàng cho các quỹ. Thời gian qua, thị trường gặp khó khăn khi các quỹ đầu tư không có nguồn hàng đa dạng, dẫn đến tình trạng sản phẩm trùng lặp và khó hấp dẫn nhà đầu tư. Để giải quyết, cơ quan quản lý đã thay đổi cơ chế ban hành chỉ số, cho phép các công ty quản lý quỹ tự xây dựng chỉ số riêng và phối hợp với sở chứng khoán để ra mắt các quỹ dựa trên chỉ số đó. Việc này không chỉ tăng tính linh hoạt, mà còn tạo cơ hội để các quỹ phát triển các mô hình đầu tư mới, hấp dẫn hơn, đồng thời thu hút các nhà đầu tư nước ngoài tham gia.
Ngoài ra, phát triển thị trường quỹ còn phụ thuộc vào nhận thức và hành vi của nhà đầu tư. Hiện nay, nhiều nhà đầu tư vẫn ưu tiên đầu tư ngắn hạn hoặc đầu cơ, thay vì đầu tư dài hạn và bài bản.
Về chất lượng sản phẩm, ông Hải cũng nhấn mạnh rằng không nên đánh giá “hàng tốt” hay “hàng xấu” chỉ dựa trên lợi suất ngắn hạn. Một sản phẩm tốt là sản phẩm minh bạch, giúp nhà đầu tư hiểu rõ rủi ro và khả năng sinh lời, từ đó đưa ra quyết định phù hợp. Đồng thời, cơ chế phân phối quỹ, đặc biệt là qua các ngân hàng, cần được kiểm soát chặt chẽ. Ông lo ngại rằng nếu phân phối không đúng đối tượng, không đảm bảo nhà đầu tư hiểu sản phẩm, sẽ dẫn đến rủi ro lớn, như đã từng xảy ra với thị trường trái phiếu. Vì vậy, việc đào tạo nhà phân phối cũng như kiểm soát việc phân phối sản phẩm là rất quan trọng.
Cuối cùng, ông Hải khẳng định rằng cơ chế bảo vệ nhà đầu tư tốt nhất là chính nhà đầu tư có kiến thức và hiểu biết. Một nhà đầu tư thông minh, biết đánh giá rủi ro và khả năng chịu đựng rủi ro của mình, sẽ tự bảo vệ mình trước các biến động của thị trường. Vì thế, chiến lược phát triển thị trường chứng khoán cần song song giữa xây dựng cơ chế pháp lý, chính sách ưu đãi và đào tạo nhà đầu tư. Chỉ khi cả ba yếu tố này đi cùng nhau, thị trường mới thực sự bền vững và hấp dẫn.
Để phát triển thị trường chứng khoán và quỹ đầu tư, cần kết hợp nhiều yếu tố: chính sách ưu đãi để quỹ phát triển, đa dạng nguồn hàng và sản phẩm, tăng cường đào tạo nhà đầu tư, đồng thời đảm bảo cơ chế phân phối minh bạch. Đây là những bước đi quan trọng để tạo ra một thị trường chứng khoán năng động, minh bạch và hấp dẫn, đáp ứng cả nhu cầu của nhà đầu tư trong nước lẫn quốc tế.
"Dòng vốn ngoại sớm muộn sẽ quay trở lại"
Một trong những vấn đề được quan tâm là sau nâng hạng, các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán Việt Nam cần làm gì để cạnh tranh với các thị trường mới nổi trong khu vực và thu hút dòng vốn quốc tế trong thời gian tới.
Trả lời vấn đề này, bà Lương Thị Mỹ Hạnh, Giám đốc Quản lý tài sản, Khối trong nước, Dragon Capital, cho biết: “Với góc nhìn của một quỹ đầu tư vừa quản lý vốn nước ngoài, vừa có quỹ nội địa, chúng tôi tiếp cận thị trường từ cả hai phía. Trên thực tế, khi nhà đầu tư nước ngoài xem xét một thị trường, họ tập trung vào ba yếu tố cốt lõi: chất lượng hàng hóa trên thị trường, mức độ minh bạch, và triển vọng tăng trưởng dòng vốn”.

Cụ thể hơn, bà Lương Thị Mỹ Hạnh chỉ ra, khi đánh giá một thị trường đầu tư, quỹ đầu tư như Dragon Capital thường nhìn vào 5 yếu tố mang tính nền tảng, bao gồm: yếu tố vĩ mô; yếu tố chính sách (gồm mức độ ủng hộ của Chính phủ, các chính sách kinh tế, chính sách tài khóa, tiền tệ và môi trường điều hành nói chung); tăng trưởng lợi nhuận doanh nghiệp; định giá thị trường; và cuối cùng là yếu tố “catalyst”, tức những câu chuyện, động lực có thể tạo ra sự thay đổi về định giá và dòng tiền.
“Xét trên các yếu tố này, Việt Nam hiện đang có rất nhiều điểm thuận lợi so với các thị trường khác. Về tăng trưởng, chỉ riêng 9 tháng vừa qua, nhóm khoảng 80 doanh nghiệp mà chúng tôi theo dõi - chiếm khoảng 85% vốn hóa thị trường – có mức tăng trưởng lợi nhuận đạt khoảng 22% và dự kiến sẽ tiếp tục duy trì ở mức hai chữ số trong năm 2026 (khoảng 16%)”, bà nói.
Về định giá, thị trường Việt Nam hiện giao dịch ở mức P/E khoảng 12 - 13 lần, thấp hơn mức trung bình 10 năm của thị trường. Đây là một yếu tố hấp dẫn nếu so sánh với nhiều thị trường khác trong khu vực.
Vấn đề còn lại là câu chuyện thị trường mới nổi và mức độ hấp dẫn của Việt Nam so với các thị trường xung quanh. Ở thời điểm hiện tại, nếu xét đủ năm yếu tố nói trên, Việt Nam đều đáp ứng khá tốt. Tuy nhiên, vẫn còn những yếu tố mang tính “kỹ thuật” khiến nhà đầu tư cân nhắc, như room sở hữu nước ngoài, các quy định liên quan đến giao dịch, chuyển tiền, hay tính thuận tiện trong vận hành, đại diện Dragon Capital cho hay.
Bà dẫn chứng: “Nếu so với các thị trường lân cận, Việt Nam hấp dẫn hơn về mặt định giá và tăng trưởng. Tuy nhiên, nếu so với các thị trường phát triển như Mỹ, nơi thị trường sâu hơn, dòng tiền dồi dào hơn dù định giá cao, thì mức độ hấp dẫn vẫn là câu chuyện tương đối, phụ thuộc vào khẩu vị rủi ro và chu kỳ dòng vốn toàn cầu”.
Từ đầu năm đến nay, nhà đầu tư nước ngoài đã rút ròng khoảng 5 tỷ USD khỏi thị trường Việt Nam. Trong vòng 5 năm gần đây, con số này vào khoảng 10 tỷ USD. Tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài hiện chỉ còn khoảng 15%, trong khi trước đây ở mức trên 20% và mức trung bình trong khu vực cũng xấp xỉ 20%. Điều này cho thấy tỷ lệ sở hữu của khối ngoại tại Việt Nam đang ở mức khá thấp.
Tuy nhiên, theo đại diện Dragon Capital, một phần dòng tiền rút ra thời gian qua là do nhà đầu tư hiện thực hóa lợi nhuận khi Việt Nam là một trong những thị trường hoạt động tốt trong năm 2025. Trong trung hạn, bà Lương Thị Mỹ Hạnh cho rằng, nếu các điều kiện nền tảng như tăng trưởng, định giá, minh bạch và chính sách hỗ trợ tiếp tục được duy trì thì dòng vốn quốc tế hoàn toàn có thể quay trở lại thị trường Việt Nam.
“Nếu Việt Nam duy trì được tăng trưởng, giữ định giá ở mức hợp lý và tiếp tục cải thiện môi trường chính sách, minh bạch, thì dòng vốn ngoại sớm muộn cũng sẽ quay trở lại”, đại diện Dragon Capital nhấn mạnh.
"Việt Nam không chỉ theo kịp mà còn có thể đổi mới cuộc chơi"
Trả lời câu hỏi về việc liệu trung tâm tài chính quốc tế (TTTCQT) tại Việt Nam có thể cạnh tranh với các TTTCQT nổi bật khác trong khu vực không, PGS.TS Ngô Trí Long cho rằng Việt Nam hội tủ đủ các yếu tố thuận lợi, nhưng thành công sẽ không phải điều “đương nhiên”.
Theo ông Long, hiện tại Việt Nam có nền tảng kinh tế vĩ mô thì tương đối ổn định, lạm phát được kiểm soát, nợ công thì an toàn, tăng trưởng ổn định. Quy mô của nền kinh tế và dân số đủ lớn. Ngoài ra còn có động lực cải cách mạnh mẽ từ trung ương. Đây là những yếu tố thu hút các định chế tài chính quốc tế. Nói cách khác, Việt Nam đang đi sau, nhưng đi đúng thời điểm khi mô hình TTTCQT thế hệ mới không chỉ phụ thuộc vào vốn, mà dựa trên đổi mới sáng tạo, trung tâm dữ liệu và tài chính xanh.
Trong bối cảnh đó, để cạnh tranh được với những TTTCQT khác như Singapore, Hongkong, Dubai, để Việt Nam có “cửa thắng” thì phụ thuộc vào yếu tố rất quan trọng đó là tốc độ và chất lượng cải cách. “TTTCQT muốn thành công thì không chỉ dựa trên khẩu hiệu, mà phải dựa trên 4 yếu tố quyết định”, ông Long chia sẻ.
Yếu tố thứ nhất là khung pháp lý, phải ổn định, linh hoạt, thân thiện. Singapore là một ví dụ thành công, vì có hệ thống pháp luật có thể dự đoán và đáng tin cậy.
Yếu tố thứ hai đó là nền tảng hạ tầng số và dữ liệu mở. TTTCQT thế hệ mới cạnh tranh bằng độ mở dữ liệu, tốc độ giao dịch, an toàn thông tin. Với chiến lược chuyển đổi số quốc gia, Việt Nam có lợi thế nhưng cần đi nhanh, phải đến tiệm cận tiêu chuẩn quốc tế về nhân lực và tài chính.
Nhân tài là yếu tố vô cùng quan trọng, Việt Nam cần có các chính sách để thu hút nhân tài, chuyên gia về làm việc tại trung tâm.
Yếu tố tiếp theo là môi trường thuế. Các trung tâm như Singapore, Dubai, Iceland đều hấp dẫn nhờ có thuế thu nhập doanh nghiệp từ 5-10% cho các ngành tài chính, fintech, quản lý tài sản…. “Theo tôi hiện tại Việt Nam có mức thuế cao hơn so với mức thuế chuẩn của TTTCQT, nếu không cải cách rất khó cạnh tranh”, ông Long chia sẻ.
Ông Long dự báo khả năng cạnh tranh của TTTCQT Việt Nam theo 2 kịch bản.
Kịch bản thứ nhất là kịch bản tích cực. “Nếu cải cách đúng điểm, đúng thời gian, đúng cuờng độ; nếu trong 12 tháng tới Việt Nam hoàn thiện được gói chính sách đặc thù tương đương với Singapore, Dubai thì TTTCQT của Việt Nam hoàn toàn có khả năng canh tranh. Các điểm cần cải thiện bao gồm vấn đề về thuế, hệ thống pháp luật, hệ thống giải quyết tranh chấp... thì trung tâm có thể cạnh tranh về các mảng quản lý tài sản, fintech, tài sản số….”, ông Long cho biết.
Kịch bản thứ 2 là kịch bản trung tính và tiêu cực - là khi chúng ta cải cách chậm và thiếu đồng bộ. Ông Long nói nếu chúng ta chỉ dừng ở mức làm thí điểm, làm từng phần, thiếu đột phá về thể chế, đặc biệt là thiếu cơ chế pháp lý về thuế và phí thì TTTCQT Việt Nam vẫn hình thành, vẫn có tác dụng với thị trường trong nước nhưng khó cạnh tranh với quốc tế.
Tổng kết lại, ông Long cho rằng TTTCQT tại Việt Nam hoàn toàn có khả năng cạnh tranh với các TTTCQT khác, nhưng thành công sẽ phụ thuộc vào quyết tâm cải cách trong một đến hai năm tới.
Ông Nguyễn Minh Hoàng: Thị trường chứng khoán có thể vượt xa mốc 1.800
Nhìn lại thị trường chứng khoán năm 2025, ông Nguyễn Minh Hoàng, Giám đốc Phân tích VFS đánh giá, năm 2025 là một năm thành công và đang mở ra một xu hướng tăng mới.
Về mặt điểm số, thị trường đã chinh phục những mốc rất cao. Động lực chính, theo ông, xuất phát từ tăng trưởng và kỳ vọng của nhà đầu tư đối khi nền kinh tế Việt Nam bước vào giai đoạn tăng tốc.
“Nền kinh tế năm nay tăng trưởng cao và năm sau có thể tăng trưởng đạt mức hai con số. Nếu nhìn vào các chỉ báo như tăng trưởng tín dụng, đầu tư công hay sự mở rộng của tiêu dùng nội địa, xu hướng đi lên vẫn rất rõ ràng, bất chấp những phiên điều chỉnh mạnh như hôm nay”, ông Hoàng nhận định.
Theo đó, chu kỳ tăng tốc 2025–2030 có thể đưa thị trường chứng khoán vượt xa mốc 1.800 điểm. Thanh khoản cũng đang cho thấy một sự thay đổi lớn, với mức bình quân khoảng 29.000 tỷ đồng mỗi phiên và có những phiên đạt tới 72.000 tỷ đồng. Đây là yếu tố quan trọng “ủng hộ” cho đà tăng và triển vọng tích cực của thị trường trong chu kỳ tới.
Hơn 43.000 doanh nghiệp FDI, nhưng chỉ dưới 20% tham gia thị trường chứng khoán
TS Phan Hữu Thắng, Chủ tịch Liên chi hội Tài chính khu công nghiệp Việt Nam (VIPFA) cho biết, hiện nay, Việt Nam có hơn 43.000 doanh nghiệp FDI, nhưng số lượng tham gia vào thị trường chứng khoán chưa đến 20%, gần như chưa được chú ý.
Tuy nhiên, khi nói về thị trường mới, ông Thắng cho rằng chúng ta phải nhìn nhận vai trò của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Dù không phải tất cả vốn này được đưa trực tiếp vào thị trường chứng khoán, nhưng FDI đóng góp rất lớn cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam, chiếm trung bình 25% tổng vốn đầu tư, đóng góp trên 70% giá trị xuất khẩu trong một số giai đoạn và tạo ra hơn 5 triệu lao động trực tiếp.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để các doanh nghiệp FDI tham gia nhiều hơn vào thị trường chứng khoán. "Đây là trách nhiệm chung của tất cả chúng ta. Như nhiều chuyên gia đã nêu, chính sách của chúng ta rất rõ ràng, nhưng khâu tổ chức và thực hiện vẫn còn hạn chế", ông nói.
Theo ông Thắng, nếu nhìn từ góc độ pháp lý, chúng ta cần hoàn thiện cơ sở pháp lý để thị trường chứng khoán được minh bạch và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Khi đó, các doanh nghiệp FDI sẽ dễ dàng tham gia, và thị trường sẽ phát triển bền vững.
"Tôi tin rằng trong vài năm tới, với sự chuẩn hóa và kiểm soát chính sách chặt chẽ, thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ có sự phát triển mạnh mẽ".
Ông Thắng cho hay, hiện nay, câu hỏi được nhiều người quan tâm là tại sao các doanh nghiệp lớn, với nguồn vốn lên tới hàng trăm tỷ USD, vẫn chưa tham gia vào thị trường chứng khoán. Đây là điều mà các hội nghị, báo cáo chuyên sâu cần làm rõ. Nếu được huy động một phần vốn này vào thị trường chứng khoán, tác động sẽ rất lớn.
"Mặc dù còn nhiều khó khăn và chính sách có thể thay đổi, nhưng với nỗ lực trong hai năm tới, thị trường có thể được chuẩn hóa hoàn toàn, với hệ thống kiểm soát chính sách và tài sản số minh bạch", ông Thắng nói.
6 giải pháp để thị trường bứt phá trên nền tảng mới
Kết lại phiên thảo luận, PGS.TS Nghiêm Thị Thà cho hay, với 3 phát biểu đề dẫn, 4 tham luận chuyên sâu và 15 lượt thảo luận của các chuyên gia, có thể rút ra 6 giải pháp để thị trường vốn tiếp tục phát triển, đặc biệt là sau khi năm 2025 đã khép lại với các “cuộc cách mạng long trời lở đất”.
Thứ nhất là hoàn thiện thể chế, bảo đảm khung khổ pháp lý theo kịp sự vận động nhanh của thị trường. Thứ hai là nâng cấp hạ tầng công nghệ cho các trung tâm tài chính, tạo nền móng cho một thị trường hiện đại, an toàn và vận hành trơn tru. Thứ ba là thúc đẩy sự phát triển của các thị trường mới, đặc biệt là thị trường tài sản mã hoá.
Thứ tư là xây dựng trung tâm tài chính quốc tế nhằm thu hút dòng vốn ngoại và hình thành bệ phóng mới cho thị trường tài chính Việt Nam. Thứ năm là nâng cao chất lượng nhà đầu tư và đội ngũ hành nghề, bảo đảm sự chuyên nghiệp và chuẩn mực. Thứ sáu là tổ chức đều đặn các diễn đàn và hội nghị, nơi các thành viên thị trường có thể lắng nghe nhau để tìm ra con đường ngắn nhất và hiệu quả nhất cho sự phát triển chung.
Bổ sung thêm, PGS.TS Ngô Trí Long đánh giá những vấn đề được thảo luận tại diễn đàn là “đúng và trúng” trọng tâm, song thị trường trong thời gian tới cần chú trọng thêm hai điểm: khai thông sâu hơn dòng vốn dài hạn trong nước và xử lý dứt điểm nút thắt minh bạch - điều kiện nền tảng cho sự phát triển bền vững.
BẾ MẠC
Phát biểu bế mạc Diễn đàn, ông Hoàng Anh Minh, Tổng biên tập Tạp chí Đầu tư Tài chính – VietnamFinance gửi lời cảm ơn trân trọng tới các vị lãnh đạo, các chuyên gia, doanh nhân và đại biểu đã tham dự, thảo luận. “Những ý kiến thảo luận hôm nay không chỉ phong phú về góc nhìn, sâu sắc về hàm lượng khoa học, mà còn gợi mở nhiều hướng tiếp cận mới, góp phần làm rõ những vấn đề mới của giai đoạn phát triển sắp tới”, ông Minh nói.
Theo ông Hoàng Anh Minh, các ý kiến trao đổi tại Diễn đàn cho thấy sự thống nhất cao rằng năm 2025 đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng của thị trường tài chính – thị trường vốn Việt Nam.
Ba trụ cột chiến lược được hình thành và khẳng định bằng những quyết sách có hiệu lực pháp lý cao, bao gồm việc thị trường chứng khoán Việt Nam được nâng hạng, mở ra cơ hội tiếp cận dòng vốn quốc tế quy mô lớn và bền vững; Luật Công nghiệp công nghệ số 2025 và Nghị quyết 05/2025/NQ-CP lần đầu tiên thiết lập khung pháp lý toàn diện cho tài sản số và khung thể chế Trung tâm Tài chính Quốc tế Việt Nam được hoàn thiện, hướng tới mô hình quản trị hiện đại theo thông lệ quốc tế, mở ra cơ hội để Việt Nam gia nhập mạng lưới tài chính toàn cầu.
Ông Minh nhấn mạnh, thị trường vốn chỉ thực sự phát triển mạnh và bền vững khi niềm tin nhà đầu tư được củng cố qua minh bạch thông tin, quản trị doanh nghiệp theo chuẩn quốc tế và nâng cao chất lượng hàng hóa niêm yết.
“Điều không thể không làm trong năm 2026 là phát triển nguồn hàng chất lượng cao, cả các sản phẩm truyền thống lẫn hiện đại. Đây là điều kiện để thu hút vốn, duy trì thanh khoản và phát triển bền vững thị trường”, Tổng biên tập Đầu tư Tài chính - VietnamFinance khẳng định.
Theo đó, năm 2026 sẽ là thời điểm để Việt Nam chứng minh năng lực triển khai, khả năng đổi mới thể chế, sức mạnh của thị trường và sự trưởng thành của cộng đồng doanh nghiệp – đầu tư.
Ông Hoàng Anh Minh cũng cho hay, từ diễn đàn, Ban tổ chức sẽ xây dựng một Bản khuyến nghị chính sách gửi tới lãnh đạo Đảng và nhà nước, các cơ quan quản lý đặc biệt là các cơ quan quản lý về kinh tế tài chính, trong nỗ lực góp tiếng nói để tiếp tục định hình chính sách, thúc đẩy triển khai chính sách và tối ưu hiệu quả các hoạt động hỗ trợ thị trường.
“Tôi tin rằng, với sự đồng hành của các cơ quan trung ương, các bộ ngành, các định chế tài chính, doanh nghiệp và giới chuyên gia, thị trường vốn Việt Nam sẽ đủ sức bứt phá trên nền tảng mới, trở thành một trong những động lực then chốt của tăng trưởng quốc gia trong thập kỷ tới. Và trong hành trình đó, Hiệp hội Tư vấn Tài chính Việt Nam, Tạp chí Đầu tư Tài chính - VietnamFinance sẽ tiếp tục có các chương trình hoạt động mới để đồng hành, cổ vũ cho sự phát triển chung của thị trường”, ông Minh bày tỏ.
Những chủ đề 'nóng' tại Diễn đàn Triển vọng Thị trường Vốn Việt Nam 2026
- Ngày 12/12 sẽ diễn ra Diễn đàn Triển vọng Thị trường Vốn Việt Nam 2026 03/12/2025 03:15
- Nâng hạng thị trường: Kỳ vọng vào vị thế mới của chứng khoán Việt Nam 07/10/2025 04:45
- Chứng khoán Việt Nam: Vượt hoài nghi, xây niềm tin, nuôi khát vọng 12/08/2025 10:00
‘Đại hạ giá’ toàn sàn, VN-Index mất 52 điểm
(VNF) - Sắc đỏ bao trùm toàn bộ các nhóm ngành trong phiên hôm nay (12/12), kéo VN-Index giảm sâu 52 điểm bất chấp thanh khoản có dấu hiệu cải thiện ở thời điểm mở cửa.
Áp thuế 0,1% khi chuyển nhượng tài sản số
(VNF) - Thu nhập từ chuyển nhượng tài sản số như Bitcoin, Ethereum... sẽ chịu mức thuế 0,1%, theo quy định tại Luật Thuế thu nhập cá nhân sửa đổi có hiệu lực từ 1/7/2026.
Doanh nghiệp nhựa đầu tiên phát hành lô trái phiếu xanh
(VNF) - Nhựa Bình Thuận phát hành 260 tỷ đồng trái phiếu xanh kỳ hạn 7 năm, được GuarantCo bảo lãnh thanh toán, tài trợ dự án nhà máy nhựa Hưng Yên và pallet tái chế.
Ngưỡng miễn thuế 500 triệu: 90% hộ kinh doanh không cần hoá đơn, sổ sách kế toán
(VNF) - Chuyên gia cho rằng, ngưỡng doanh thu miễn thuế 500 triệu được Quốc hội thông qua ngày 10/12 sẽ giúp khoảng 90% hộ kinh doanh không bắt buộc sử dụng hoá đơn và sổ sách kế toán.
Có hơn 10 tỷ trong tay, vợ chồng cãi nhau vì 'có nên mua nhà lúc này?'
(VNF) - Đứng giữa giá chung cư Hà Nội và áp lực an cư, nhiều gia đình rơi vào vòng tranh luận giữa tối ưu vốn và nhu cầu ổn định cuộc sống. Trao đổi với VietnamFinance, chuyên gia hoạch định tài chính cá nhân Trần Đức Trung cho rằng, để giải bài toán này không phải chọn bên nào thắng, mà cần một chiến lược dung hòa – vừa đảm bảo tăng trưởng tài sản, vừa tạo sự yên tâm cho gia đình.
Cơ chế tiền lương theo vị trí việc làm với viên chức từ 1/7/2026
(VNF) - Luật Viên chức (sửa đổi) được thông qua chuyển cơ chế quản lý và trả lương sang vị trí việc làm từ 1/7/2026, kèm theo các quy định khuyến khích sự đổi mới, sáng tạo.
Hà Nội dồn lực cho kinh tế số: Rót 'vốn mồi' 600 tỷ, 'đốt đuốc' tìm nhân tài
(VNF) - TS Trần Anh Tuấn, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP Hà Nội, cho hay, thành phố đang “đốt đuốc” tìm kiếm các kỹ sư trưởng ở nhiều lĩnh vực, trong đó có tài sản số. Ngoài ra, thành phố đã chi ngay "vốn mồi" 600 tỷ đồng cho Quỹ đầu tư mạo hiểm đầu tiên trên cả nước.
Loạt doanh nghiệp mạnh tay chi cổ tức tiền mặt, có nơi lên tới 100%
(VNF) - Nhiều doanh nghiệp lớn vừa công bố kế hoạch chi cổ tức tiền mặt quy mô lớn, trong đó FT1 trả 51,42% cho cổ đông, PAT tạm ứng tới 100% và DGC dự chi hơn 1.140 tỷ đồng.
Sunshine Group được vinh danh 'Doanh nghiệp có chiến lược M&A tiêu biểu năm 2024 - 2025' tại Diễn đàn M&A Việt Nam
(VNF) - Sunshine Group vừa được vinh danh là “Doanh nghiệp có chiến lược M&A tiêu biểu năm 2024-2025” tại Diễn đàn M&A Việt Nam lần thứ 17. Đây là sự kiện uy tín nhất trong lĩnh vực mua bán, sáp nhập tại Việt Nam, do Báo Tài chính – Đầu tư tổ chức dưới sự chỉ đạo và bảo trợ của Bộ Tài chính.
Trước Bút bi Thiên Long, 'đại gia' Nhật âm thầm thâu tóm DN Việt
(VNF) - Thương vụ Kokuyo thâu tóm Thiên Long dù mới dừng lại ở khâu công bố thông tin và đang xúc tiến thực hiện tạo được tiếng vang như dấu mốc về sự trở lại mạnh mẽ của nhà đầu tư Nhật Bản tại Việt Nam.
Doanh nghiệp có thể phát hành token để 'IPO' thẳng ra nước ngoài?
(VNF) - Theo các chuyên gia, tài sản số sẽ sớm chính thức bước ra khỏi “vùng xám” để trở thành một kênh dẫn vốn chính thống và hiệu quả cho nền kinh tế.
Chuyển đổi IFRS: Bước ngoặt chuyển mình cho doanh nghiệp Việt thời hội nhập
(VNF) - Sau khi Bộ Tài chính ban hành Thông tư 99/2025/TT-BTC, lộ trình áp dụng IFRS đã trở thành yêu cầu bắt buộc với doanh nghiệp Việt Nam. Cơ hội nâng tầm minh bạch và chuẩn hóa quốc tế đang mở ra, nhưng đi kèm là thách thức lớn về dữ liệu, hệ thống và nhân lực – những yếu tố then chốt quyết định thành công của quá trình chuyển đổi.
'Cá nhân sẽ phải nộp thuế rất cao nếu không đăng ký kinh doanh'
(VNF) - Bà Lê Thị Duyên Hải khuyên rằng, chính sách thuế đối với hộ, cá nhân cho trường hợp có đăng ký hoặc không đăng ký kinh doanh sẽ rất khác nhau. Do đó, cần thực hiện theo quy định để hưởng đúng quyền lợi của mình.
Quản lý tài chính cá nhân: Người Việt tiết kiệm nhiều nhưng đầu tư vẫn dè dặt
(VNF) - Lượng tiền gửi của người dân liên tục tăng cao, cho thấy ý thức tích luỹ ngày càng rõ rệt. Tuy nhiên, đằng sau bức tranh tiết kiệm tích cực ấy là thực tế phần lớn người Việt vẫn quản lý tài chính theo thói quen, ít tham gia đầu tư và chưa khai thác hiệu quả các công cụ tài chính hiện đại.
Đơn hàng lao dốc, Nam Hoa Toys bán nhà máy từng kỳ vọng 'thay đổi cuộc chơi'
(VNF) - Sau vài năm mạnh tay mở rộng sản xuất rồi chững lại vì đơn hàng lao dốc, chủ thương hiệu đồ chơi Nam Hoa Toys đã quyết định bán nhà máy tại Củ Chi – cơ sở vừa được đưa vào vận hành từ năm 2019.
HID lại 'dậy sóng' tăng trần 5 phiên, Halcom nói gì?
(VNF) - Công ty Cổ phần Halcom Việt Nam (HoSE: HID) vừa có văn bản giải trình về việc cổ phiếu tăng trần 5 phiên liên tiếp từ 02 - 08/12.
Loạt thương hiệu Việt nổi tiếng trong tay người Nhật
(VNF) - Việc Kokuyo bày tỏ tham vọng thâu tóm Thiên Long cho thấy dòng vốn Nhật đang mở rộng lĩnh vực đầu tư tại Việt Nam, trong đó chủ yếu hướng tới các thương hiệu lâu đời.
Chu kỳ mới cho chứng khoán Việt: Định giá hấp dẫn và động lực tăng trưởng rõ ràng
(VNF) - Tổng giám đốc OCBS nhận định rằng bước sang năm 2026, thị trường chứng khoán Việt Nam có cơ sở để hình thành một chu kỳ tăng trưởng mới với động lực từ tăng trưởng lợi nhuận doanh nghiệp và định giá hấp dẫn.
Phân loại 4 nhóm hộ kinh doanh theo chính sách thuế mới từ 1/1/2026
(VNF) - Theo quy định tại Luật Quản lý thuế (thay thế), hộ kinh doanh sẽ được chia làm 4 nhóm với sự khác nhau về ngưỡng doanh thu và phương pháp nộp thuế từ 1/1/2026.
Quốc hội chốt áp thuế 35% với thu nhập cá nhân trên 100 triệu đồng/tháng
(VNF) - Luật thuế thu nhập cá nhân (TNCN) sửa đổi quy định, mức thuế suất cao nhất là 35%, áp dụng với thu nhập tính thuế trên 100 triệu đồng/tháng.
Năm năm thí điểm cho người Việt vào casino: Vì sao dự án Phú Quốc vẫn lỗ hơn 4.200 tỷ đồng?
(VNF) - Nếu tính riêng hoạt động kinh doanh casino, lũy kế 5 năm thí điểm, kết quả kinh doanh casino của Casino Phú Quốc đạt 3.339 tỷ đồng, tuy nhiên, tính chung toàn dự án lỗ 4.239 tỷ đồng.
ETF ngoại đảo danh mục: Tính xả 7,7 triệu cổ phiếu VIC, gom 11,5 triệu cổ phiếu HPG
(VNF) - Hai ETF lớn sẽ thực hiện cơ cấu quý IV với tổng giá trị giao dịch dự kiến hàng nghìn tỷ đồng, tạo áp lực ngắn hạn lên VIC trong khi HPG, SSI và SHB đứng trước cơ hội được hút vốn mạnh.
Dòng vốn lớn đến Việt Nam vấp phải rào cản 'cơ chế thoái vốn'
(VNF) - Trong bối cảnh dòng vốn quốc tế đang quay trở lại khu vực, bài toán thoái vốn – yếu tố quyết định khả năng “ra hàng” của nhà đầu tư tiếp tục là rào cản lớn tại Việt Nam. Nhiều chuyên gia nhận định rằng cải thiện thanh khoản, nâng hạng thị trường và hoàn thiện cơ chế thoái vốn sẽ là chìa khóa để thu hút dòng vốn mới trong năm 2025.
'Ém' thông tin, công ty con của HANDICO bị xử phạt
(VNF) - Công ty cổ phần Tu tạo và phát triển Nhà, thành viên của Tổng công ty Đầu tư và phát triển Nhà Hà Nội (HANDICO) bị UBCKNN xử phạt số tiền 95 triệu đồng do không công bố thông tin.
‘Đại hạ giá’ toàn sàn, VN-Index mất 52 điểm
(VNF) - Sắc đỏ bao trùm toàn bộ các nhóm ngành trong phiên hôm nay (12/12), kéo VN-Index giảm sâu 52 điểm bất chấp thanh khoản có dấu hiệu cải thiện ở thời điểm mở cửa.
'Trải nghiệm' cao tốc Quảng Ngãi - Hoài Nhơn 20.400 tỷ trước ngày thông xe
(VNF) - Sau gần 3 năm thi công, tuyến cao tốc Quảng Ngãi - Hoài Nhơn đang bước vào giai đoạn nước rút cuối cùng sẵn sàng cho lễ khánh thành dự kiến diễn ra vào ngày 19/12 tới đây.
































































