JLL: Trung tâm kho lạnh đang là cơ hội đầu tư lớn tại Việt Nam

Trịnh Thu - 25/05/2021 22:02 (GMT+7)

(VNF) - Theo Jones Lang LaSalle (JLL), xu hướng người tiêu dùng chuyển sang ‘đi chợ’ trực tuyến đang thúc đẩy nhu cầu đối với kho lạnh chứa hàng, phân khúc vốn đang thiếu hụt nguồn cung trầm trọng ở tất cả các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

VNF
JLL: Trung tâm kho lạnh đang là cơ hội đầu tư lớn tại Việt Nam

Kho lạnh là hệ thống có thể điều chỉnh, kiểm soát nhiệt độ và độ ẩm nhằm kéo dài thời gian lưu kho một số mặt hàng nhất định như thực phẩm, mỹ phẩm hay thậm chí là vắc-xin.

Kho lạnh có thể phân thành 3 loại chính bao gồm: kho trữ đông lạnh sâu (từ -30 tới -28 độ C), kho đông lạnh (từ -20 tới -16 độ C) và kho mát (từ 2 tới 4 độ C).

Theo JLL, kho lạnh là hạng mục rất quan trọng đối với ngành thủy hải sản Việt Nam. Trong thời kỳ cao điểm của đại dịch, có 30% - 50% đơn đặt hàng xuất khẩu thủy sản đã bị hủy dẫn đến hàng tồn kho leo thang và các kho lạnh phải hoạt động công suất tối đa.

“Với chuỗi cung ứng lạnh không tập trung và hầu hết được điều hành bởi các nhà cung cấp vừa và nhỏ, các trung tâm kho lạnh là cơ hội đầu tư lớn cho các nhà khai thác tại đây”, bà Trang Bùi, Giám đốc cấp cao Thị trường Việt Nam của JLL, nhận định.

Hiện tại, nguồn cung kho lạnh chủ yếu tập trung ở khu vực phía Nam do nhu cầu lớn, trong đó khoảng 60% thị phần được nắm giữ bởi các nhà đầu tư nước ngoài.

Kho lạnh thương mại đầu tiên của Việt Nam được xây dựng năm 1996 bởi Konoike Vinatrans, một liên doanh giữa Nhật Bản và Việt Nam. Tới năm 1998, Swire Cold Storge của Úc xây dựng một trong những kho lạnh hiện đại nhất thời bấy giờ. Mãi tới năm 2007, Công ty Cổ phần Hùng Vương mới xây dựng thêm hai kho lạnh với tổng sức chứa là 40.000 tấn hàng. Nối tiếp sau đó, một số doanh nghiệp cũng xây dựng kho lạnh như LOTTE Sea (2009) và Preferred Freezer Services (2010).

Dù vậy, nguồn cung kho lạnh của Việt Nam vẫn hạn chế. JLL cho rằng sự hạn chế của nguồn cung một phần là do các cơ sở kho lạnh cần nhiều thời gian xây dựng hơn các loại bất động sản hậu cần khác. Việc xây dựng các kho bảo quản lạnh sẽ phức tạp và tốn kém hơn so với các kho tiêu chuẩn.

“Chi phí đầu tư kho lạnh cao gấp hai đến ba lần so với nhà kho thông thường và quá trình xây dựng có thể lâu hơn đến sáu tháng. Bên cạnh đó là thời hạn thuê thường kéo dài từ 15 năm đến 20 năm khiến nguồn cung đã khan hiếm càng khan hiếm hơn,” bà Trang Bùi chia sẻ.

Ở bình diện quốc tế, nhu cầu kho lạnh gia tăng bởi nhu cầu mua thực phẩm tươi ngon gia tăng – vốn được thúc đẩy bởi tỷ lệ dân số và tầng lớp trung lưu tăng nhanh tại châu Á.

Nhu cầu lớn khiến các nhà phát triển phải đáp ứng theo, dẫn đến sự bùng nổ xây dựng. Theo công ty tư vấn Emergen, khối lượng xây dựng kho lạnh được dự đoán sẽ đạt giá trị 18,6 tỷ USD vào năm 2027, tăng 13,8% mỗi năm.

Nhưng ngay cả với tốc độ xây dựng này, tình trạng thiếu kho lạnh có thể vẫn tiếp diễn do nhu cầu lớn về thực phẩm tươi sống.

Công ty nghiên cứu Forrester dự báo dịch vụ đi chợ trực tuyến tại châu Á Thái Bình Dương sẽ tăng 30% mỗi năm cho đến năm 2024, tăng gấp đôi thị phần trực tuyến lên 10,6%.

Tại Mỹ, tỷ trọng mua thực phẩm trực tuyến được dự báo sẽ tăng gấp đôi vào năm 2025 lên 21,5%, theo nghiên cứu của hãng thương mại điện tử Mercatus và công ty Incisiv.

Tại Anh, 80% thực phẩm thô được nhập khẩu và tình trạng thiếu hụt trái cây và rau quả tươi ngày càng báo động. Alan Selby, Giám đốc bộ phận kho lạnh công nghiệp tại JLL’s Integral cho biết: “Chúng tôi dự đoán nhu cầu sẽ tang lên theo thời gian khi xu hướng tự trồng rau củ và bảo quản tại nhà trở nên phổ biến hơn”.

Tiềm năng của kho lạnh đã thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư bất động sản, cả các quỹ đầu tư mạo hiểm và bên cho vay. Các nhà đầu tư cũng đang cân nhắc kho lạnh như một khoản đầu tư thay thế cho bất động sản công nghiệp truyền thống.

Với sự toàn cầu hóa của các ngành công nghiệp thực phẩm, các công ty hậu cần cũng đang tìm cách mở rộng sang các thị trường mới. “Tính đến thời điểm này chỉ mới có một số ít doanh nghiệp tham gia vào thị trường Việt Nam, nhưng chưa công ty nào cung cấp được chuỗi dịch vụ cung ứng đầy đủ,” bà Trang Bùi nhấn mạnh.

Để đạt được những mục tiêu tăng trưởng trong tương lai, chuyên gia JLL nhận định, ngành hậu cần của Việt Nam cần vượt qua nhiều thách thức. Trước hết, để Việt Nam có thể tiến lên giai đoạn tiếp theo trong quá trình phát triển logistics công nghiệp, trở nên cạnh tranh hơn và thậm chí đi trước các nước khác, cần tiếp tục duy trì mức đầu tư hợp lý vào đầu tư cơ sở hạ tầng, cần chú trọng vào việc phát triển cả hệ thống đường cao tốc và mạng lưới tiện ích, kể cả năng lượng tái tạo.

Bên cạnh đó, quy trình giao thương xuyên biên giới của Việt Nam, bao gồm cả thời gian và chi phí, vẫn cần cải tiến đáng kể.

“Chi phí giao dịch qua biên giới, như chi phí tuân thủ tài liệu thủ tục và chi phí xuất nhập khẩu, ở Việt Nam kém cạnh tranh hơn so với hầu hết các nước trong khu vực", JLL nhận xét.

Cùng chuyên mục
Tin khác