Chuyên gia nước ngoài hiến kế giúp kinh tế Việt Nam vượt 'bão Covid-19'
Phan Linh - Minh Tâm -
21/03/2020 09:26 (GMT+7)
(VNF) - Chia sẻ với VietnamFinance, GS. TS Andreas Stoffers cho biết: "Thực tế chứng minh rằng đã có những khủng hoảng kinh tế và sẽ luôn có, vậy nên sẽ là không thực tế nếu tin rằng các công cụ của Keynes có thể loại bỏ chúng. Những can thiệp của chính phủ có thể cần thiết trong trường hợp này, nhưng chúng nên được thực hiện với ý thức về tỷ lệ và giới hạn về thời gian nhất định".
GS. TS Andreas Stoffers, Giám đốc Quốc gia Viện Friedrich Naumann Foundation for Freedom, Hanoi
"Thế giới đang chao đảo trong khủng hoảng của Covid-19. Đại dịch toàn cầu này chắc chắn không phải nguồn gốc, nhưng là nguyên nhân dẫn tới sự suy yếu kinh tế trên thế giới trong thời gian qua", GS. TS Andreas Stoffers, Giám đốc Quốc gia Viện Friedrich Naumann Foundation for Freedom, Hanoi nói với VietnamFinance.
Theo ông Andreas Stoffers, sau suy thoái kinh tế năm 2008, một số cá nhân dường như đã quên rằng các cuộc khủng hoảng kinh tế vẫn luôn có nguy cơ xảy ra và không quá bất ngờ về điều đó. Trong quá khứ, trong những biến động về kinh tế sẽ có cả người thắng và kẻ thua. Tuy nhiên, thắng hay thua phụ thuộc vào việc các quốc gia đối diện như thế nào với những khó khăn và những chính sách kinh tế nào sẽ được đưa ra.
Vừa qua, Việt nam đã đưa ra những động thái khá thú vị để giải quyết các vấn đề kinh tế trong đại dịch Covid-19. Liệu cách thức của Việt Nam có thể trở thành một hình mẫu cho các quốc gia?
Vị chuyên gia này nhận định, Chính phủ Việt Nam đã phản ứng với đại dịch toàn cầu Covid-19 rất nhanh và quyết liệt. Các trường học đóng cửa, các sự kiện với đông người tham gia cũng bị hủy bỏ, người dân được nhắc nhớ thường xuyên về việc phải cẩn thận, cửa khẩu cũng từng bị đóng và hạn chế người di chuyển.
Ông đánh giá Chính phủ Việt Nam đã không cho thấy dấu hiệu của sự hoảng loạn như cách mà châu Âu đang phản ứng.
"Sau khi phớt lờ sự nguy hiểm của dịch bệnh, những hành động không hợp lý của các Chính phủ châu Âu bắt đầu xuất hiện. Hơn thế nữa do các chính sách nghèo nàn của Ngân hàng Trung ương Châu Âu trong những năm gần đây, họ khó có thể đưa ra những công cụ tiền tệ cần thiết trong thời điểm này. Tuy nhiên, tại Việt Nam tình hình lại diễn biến khác", GS. TS Andreas Stoffers nêu quan điểm.
Nói rõ thêm, chuyên gia nhìn nhận những chính sách kinh tế gần đây của Việt Nam dường như sẽ hữu hiệu đối với nền kinh tế.
Thứ nhất, Chính phủ tung gói tín dụng 250 nghìn tỷ đồng, gói hỗ trợ tài khóa 30 nghìn tỷ đồng. Thứ hai, Ngân hàng Nhà nước hạ lãi suất tái cấp vốn giảm từ 6,0%/năm xuống 5,0%/năm, lãi suất tái chiết khấu từ 4,0%/năm xuống 3,5%/năm. Thứ ba, Bộ Tài chính cũng đề xuất một vài công cụ kinh tế liên quan đến miễn giảm và gia hạn thuế và phí.
"Trước hết có thể nói rằng, gói hỗ trợ tín dụng tiềm ẩn ít nguy cơ liên quan đến lạm phát, bởi lẽ 250 nghìn tỷ đồng không phải, hoặc có ít, nguồn cung tiền mới được bơm ra thị trường, khoản tiền này sẽ dùng để gia hạn các khoản vay, giảm hoặc gỡ bỏ lãi suất, giảm các chi phí giao dịch, v.v.
Nói cách khác, khoản tiền sẽ nhằm mục đích “bôi trơn” để giúp các bánh răng trong nền kinh tế - các công ty vận hành. Mặc dù, nguồn lợi nhuận của các ngân hàng có thể giảm nhưng ít nhất thì họ cũng duy trì được tính thanh khoản", GS. TS Andreas Stoffers nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, theo ông, gói 30 nghìn tỷ cũng có ít khả năng gây ra lạm phát bởi lẽ mục đích của khoản này là để giảm thuế hoặc giãn thời gian trả thuế và giúp các doanh nghiệp duy trình tính thanh khoản trong tài chính của họ.
Tuy nhiên, vị chuyên gia này khuyến nghị với cả hai gói hỗ trợ, điều quan trọng nhất là đảm bảo thành phần tham gia biết cách thức các gói hoạt động và làm rõ ràng những đơn vị cần được ưu tiên sử dụng công cụ hỗ trợ.
"Hiển nhiên, khi nguồn lực có hạn thì không nên dùng đại trà trên tất cả các thành phần tham gia. Đồng thời, đảm bảo, nguồn tiền được sử dụng cẩn thận, tránh các rủi ro về lạm phát và lấy đi các nguồn chi trả cho chính sách tài khóa từ tay Chính phủ. Không ai biết trước được đại dịch sẽ kéo dài trong bao lâu. Những phản ứng tài khóa tức thời sẽ trở nên ngày càng quan trọng và điều đó yêu cầu nguồn lực bền vững", GS. TS Andreas Stoffers cho hay.
Ông đánh giá, việc Ngân hàng Nhà nước (SBV) cắt giảm lãi suất cũng đưa ra một tín hiệu quan trọng. Những chính sách đó có thể cho phép các công ty vay vốn một cách rẻ hơn.
Khi nguồn tiền có hạn thì phải được sử dụng cẩn thận, tránh các rủi ro về lạm phát; không ai biết trước được đại dịch sẽ kéo dài trong bao lâu
Chuyên gia này cho rằng không giống như Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) hay Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) với mức lãi suất điều hành đã bị hạ thấp xuống tới 0 từ 2016 (ECB) và 16/03/2020 (FED), SBV vẫn còn chưa dùng hết “đạn” của mình.
Dẫn trường hợp cụ thể, GS. TS Andreas Stoffers đặt câu hỏi ECB có thể tiếp tục hỗ trợ thị trường của họ thế nào thông qua các công cụ về lãi suất? Theo ông, lãi suất âm chính là một nguyên nhân khiến các cá nhân đổ dồn sang nắm giữ tiền mặt và tất nhiên đây là điều không ai muốn. Sự đi xuống của nền kinh tế có thể gây ra thêm nhiều thất vọng và cuối cùng sẽ là sự mất kiểm soát tuyệt đối của ECB.
Thậm chí đến nay, việc ECB duy trì lãi suất không cũng gây ít nhiều khó khăn cho các ngân hàng tại châu Âu. Thường thì đến 70-80% lợi nhuận của Ngân hàng đến từ biên lãi ròng. Nhưng với mức lãi suất 0%, biên lãi ròng gần như là không có.
Các khoản vay với mức lãi suất rất thấp cho phép các “công ty ma” tồn tại và bong bóng tài chính hoàn toàn có thể xảy ra.
"Tại Việt Nam, tình hình có vẻ khả quan hơn. SBV vẫn còn nhiều khoảng trống trong sử dụng công cụ lãi suất. Tuy nhiên bài học của châu Âu chính là lời cảnh báo cho Việt Nam để chống lại việc hạ lãi suất điều hành bằng 0%", chuyên gia nước ngoài nhận định.
Tuy nhiên, ông cũng lưu ý rằng chính sách của Việt Nam cũng kéo theo rủi ro. Ví dụ, nợ quốc gia sẽ tăng lên.
Kể từ năm 2016, nợ quốc gia đã gần mức trần tại 65%, điều đó khiến Nhà nước có ít không gian để vay thêm. Ngoài ra, có thể xảy ra việc các công ty phụ thuộc quá nhiều vào sự hỗ trợ của chính phủ thay vì tự mình tìm cách thoát khỏi khủng hoảng – đây mới thực sự là điều sẽ khiến họ trở nên mạnh mẽ hơn.
"Việt Nam nên chống lại sự cám dỗ của các chính sách lâu đời thuộc trường phái Keynes bởi điều này luôn yêu cầu sự can thiệp đắt đỏ của nhà nước. Thực tế chứng minh rằng đã có những khủng hoảng kinh tế và sẽ luôn có, vậy nên sẽ là không thực tế nếu tin rằng các công cụ của Keynes có thể loại bỏ chúng. Những can thiệp của chính phủ có thể cần thiết trong trường hợp này, nhưng chúng nên được thực hiện với ý thức về tỷ lệ và giới hạn về thời gian nhất định", GS. TS Andreas Stoffers bày tỏ quan điểm.
Kinh tế học Keynes là hệ thống lý luận kinh tế vĩ mô lấy tác phẩm Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ của John Maynard Keynes (1883-1946) làm trung tâm và lấy nguyên lý cầu hữu hiệu làm nền tảng.
Theo lý thuyết này, vào những thời kỳ suy thoái kinh tế, nếu tăng lượng cầu đầu tư hàng hóa công cộng (tăng chi tiêu công cộng, bao gồm đầu tư công) thì sản xuất và việc làm sẽ tăng theo, nhờ đó giúp cho nền kinh tế ra khỏi thời kỳ suy thoái.
Theo chuyên gia, tại thời điểm này, Việt Nam nên chú ý 7 vấn đề.
Thứ nhất, việc cung cấp các gói viện trợ khẩn cấp là không cần thiết. Ở đây, các gói biện pháp nêu trên là hướng đi đúng đắn nhưng nên cân nhắc nếu được tiếp tục sử dụng.
Thứ hai, một chính sách gia tăng đầu tư lớn hoặc chi tiêu của Chính phủ theo nghĩa của Keynes là không nên. Thay vào đó, các nguồn tài nguyên nên được đưa vào để thúc đẩy đầu tư của khu vực tư nhân và FDI.
Thứ ba, nói một cách cụ thể, tăng cường thương mại điện tử hoặc đa dạng hóa các nhóm khách hàng có thể là hai giải pháp khả thi để tăng sự luân chuyển của hàng hóa.
Thứ tư, doanh nghiệp nhà nước không nên là người hưởng lợi nhiều từ bất kỳ khoản trợ cấp nào vì tính hiệu quả và minh bạch của nó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có lẽ nên được ưu ái hơn.
Thứ năm, kiểm soát giá quá chặt từ phía nhà nước sẽ phản tác dụng và khiến méo mó thị trường. Nhà nước nên ngăn chặn các ảnh hưởng phụ như thị trường chợ đen, lãng phí tài nguyên, chi phí chờ đợi và đầu tư thấp.
Thứ sáu, các hỗ trợ về mặt xã hội như trợ cấp thất nghiệp chắc chắn phù hợp để hỗ trợ công dân bị ảnh hưởng.
Cuối cùng, dựa theo bài học từ EU, không bao giờ nên áp dụng chính sách lãi suất bằng 0 cho Việt Nam.
"Tôi tin rằng Việt Nam sẽ trở nên mạnh mẽ hơn sau những biến động kinh tế này nhờ vào các gói hỗ trợ và cùng với đó, sức ảnh hưởng của nền kinh tế Việt Nam trên thế giới sẽ tăng lên. Nguy cơ về sự sụt giảm của giá tài sản, đặc biệt là ở EU sẽ tạo các cơ hội đầu tư tốt cho Việt Nam trong khuôn khổ EVFTA. Trong mọi trường hợp, thương mại tự do sẽ giúp tất cả các quốc gia hồi phục nhanh hơn", GS. TS Andreas Stoffers chốt lời.
GS. TS Andreas Stoffers có 18 năm kinh nghiệm thực tiễn trong lĩnh vực ngân hàng tại Đức và Đông Nam Á.
Ông là Giáo sư về Quản trị Kinh doanh và Quản trị quốc tế tại trường Đại học Quốc tế SDI Munich về khoa học ứng dụng; cũng là Giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Malaya, Kuala Lumpur, Malaysia và trường Đại học Việt – Đức tại Bình Dương, Việt Nam.
Kể từ tháng 9/2019, ông tiếp quản Quỹ Friedrich Naumann Foundation tại Việt Nam dưới tư cách là Giám đốc quốc gia.
(VNF) - Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đầy biến động, Việt Nam đang đặt ra mục tiêu đầy “tham vọng” là tăng trưởng GDP trên 8% trong năm 2025 và xa hơn là đạt mức tăng trưởng hai con số (10% trở lên) trong những năm tiếp theo. Để hiện thực hóa tham vọng này, theo các chuyên gia, cải cách mô hình quản lý kinh tế sẽ giúp bộ máy phát triển một cách trơn tru, có thể giúp cải thiện tăng trưởng GDP lên 1 - 2%, thêm cơ hội tăng trưởng 2 con số.
(VNF) - Năm 2025, DN phải đối mặt với nhiều khó khăn cả trong và ngoài nước. Thị trường thế giới tiềm ẩn nhiều biến động khi cuộc chiến thuế quan này càng nóng lên, nhu cầu trong nước phục hồi chậm... Trong khi đó những điểm nghẽn về môi trường kinh doanh, thiếu vốn vẫn chưa được xử lý dứt điểm.
(VNF) - Theo đánh giá của các chuyên gia, để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP là 8%, thì tăng trưởng tín dụng 16% là hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên, mục tiêu này có đạt được hay không phải dựa trên khả năng hấp thụ vốn của thị trường.
(VNF) - Để đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP trên 8% trở lên trong năm 2025, GS.TSKH Nguyễn Mại cho rằng cần phải lưu ý đến tình hình sản xuất, mở rộng, nâng cao năng lực của doanh nghiệp.
(VNF) - “Cuộc cách mạng” tinh gọn bộ máy được đánh giá sẽ tạo ra những thay đổi quan trọng trong cơ cấu thu – chi ngân sách, thúc đẩy sự chuyển động nhanh, mạnh, hiệu quả của bộ máy hành chính, mang lại lợi ích rất lớn cho nền kinh tế trong dài hạn.
(VNF) - Để tạo được đột phá trong cải cách thể chế, Luật sư Nguyễn Tiến Lập, trọng tài viên Trung tâm
trọng tài quốc tế Việt Nam, cho rằng phải từ bỏ được tư duy không quản được thì cấm.
(VNF) - Trong nền kinh tế có chế độ tỷ giá tương đối cố định như Việt Nam, chính sách tiền tệ sẽ ít hiệu quả hơn so với chính sách tài khóa, vì vậy trong ngắn hạn, đẩy mạnh giải ngân nguồn vốn đầu tư công hiệu quả sẽ mang lại tác động tích cực hơn.
(VNF) - PGS-TS Trần Đình Thiên - Nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho rằng, để đạt được mục tiêu tăng trưởng cao cần cách tiếp cận khác thường. Theo đó, để hiện thực hóa mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và thu nhập cao vào năm 2045, Việt Nam đặt mục tiêu và hướng đi trong năm 2025 là tập trung phát triển kinh tế số, công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo (AI) và kinh tế xanh.
(VNF) - Ông Nguyễn Hoàng Linh, Giám đốc Nghiên cứu, Công ty Quản lý Quỹ VCBF cho biết:
Trong cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội, thực tế đầu tư tư nhân mới chiếm tỷ trọng cao nhất. Trong những năm gần đây, đầu tư tư nhân tăng trưởng rất chậm, năm 2023 là gần 3% năm 2024 là khoảng 8 - 9%, thấp hơn mức tăng trưởng trung bình 15% của các năm trước dịch.
(VNF) - Về quyết định Mỹ áp thuế 25% với mặt hàng sắt thép của tất cả các nước, một số doanh nghiệp sắt thép khẳng định khi các doanh nghiệp ở các nước khác cũng chịu cùng chung mức thuế như Việt Nam khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt sẽ cao hơn.
(VNF) - Trong những năm qua, chúng ta thường tiếp cận với thông tin rằng tăng trưởng GDP của Việt Nam chủ yếu dựa vào khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), còn doanh nghiệp tư nhân trong nước chỉ đóng góp rất ít, thậm chí chỉ chiếm 10% GDP. Tuy nhiên, thông tin này không chính xác và đã trở nên lạc hậu, theo chia sẻ của doanh nhân Đỗ Cao Bảo, thành viên HĐQT tập đoàn FPT.
(VNF) - Ông Phan Đức Hiếu - Uỷ viên thường trực, Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội khẳng định, nếu chúng ta phát huy được năng lực của doanh nghiệp nội địa cũng như nguồn lực trong nước thì sự phát triển sẽ bền vững và lâu dài hơn.
(VNF) - Khi nhu cầu đầu tư và tích trữ vàng của người dân vẫn duy trì ở mức cao, thị trường vàng trở nên sôi động nhưng cũng tiềm ẩn nhiều biến động. Chính vì vậy, việc đưa ra các giải pháp quản lý hiệu quả không chỉ giúp ổn định thị trường mà còn góp phần đảm bảo sự minh bạch, hạn chế rủi ro và bảo vệ quyền lợi của người dân.
(VNF) - Để có được mức tăng trưởng 8% cho 2025 và hướng tới tăng trưởng hai con số, Luật sư Trương Thanh Đức - Giám đốc Công ty Luật ANVI khẳng định: Thể chế là yếu tố mang tính quyết định việc chúng ta tiến hay lùi và vươn mình đến đâu.
(VNF) - Để nền kinh tế có thể đảm bảo tốc độ tăng trưởng trong 2025 và hướng tới tăng trưởng hai con số nếu có điều kiện thuận lợi, PGS.TS. Nguyễn Hữu Huân, Đại học Kinh tế TP. HCM cho rằng, chúng ta cần thực thi chính sách tiền tệ linh hoạt và theo diễn biến của thị trường, kèm theo đó là cần có những công cụ dự báo tốt, việc điều hành chính sách mang tính kịp thời hơn, tránh trường hợp sự việc đã xảy ra chúng ta mới tìm cách ứng phó thì sẽ không kịp bởi chính sách tiền tệ thường có độ trễ.
(VNF) - Về mục tiêu tăng trưởng 8%, thậm chí đạt hai con số nếu điều kiện thuận lợi, trao đổi với Tạp chí Đầu tư Tài chính – VietnamFinance, ông Nguyễn Chí Dũng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư khẳng định, đây là mục tiêu cao, nhiều thách thức nhưng có thể đạt được và cần quyết tâm đạt được để tạo đà tăng trưởng bứt phá cho kỷ nguyên phát triển mới.
(VNF) - Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng 8% cho 2025 và hướng tới tăng trưởng hai con số trong dài hạn. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều biến động khó dự đoán, những khó khăn và thách thức trong nước vẫn khó đoán định thì việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng như trên dường như không phải dễ dàng.
(VNF) - PGS.TS. Nguyễn Hữu Huân (Đại học Kinh tế TP. HCM) cho rằng câu chuyện của năm sau sẽ là sự đánh đổi giữa lãi suất và tỷ giá. Nếu muốn giảm lãi suất, Chính phủ phải hy sinh tỷ giá và ngược lại.
(VNF) - Để duy trì đà tăng trưởng trong năm 2025, việc duy trì ổn định kinh tế vĩ mô với sự kết hợp cân bằng hơn giữa các chính sách tiền tệ và tài khóa là điều cần thiết. Trong thời gian tới, các chính sách phối hợp là rất quan trọng để hỗ trợ phục hồi kinh tế.
(VNF) - Trong bối cảnh nền kinh tế quốc dân còn nhiều khó khăn phía trước, kinh tế thế giới có nhiều biến động khó đoán, các động lực tăng trưởng cũ đã cạn, thì doanh nghiệp tư nhân được xem là sự kỳ
vọng của nền kinh tế. Bởi vậy, đẩy mạnh cải cách thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh là điều
hết sức quan trọng để doanh nghiệp tư nhân phát huy tối đa tiềm lực và phát triển mạnh mẽ.
(VNF) - Trong một thế giới VUCA (Biến động – Không chắc chắn – Phức tạp – Mơ hồ) thì có một điều ngày càng trở nên rõ ràng hơn là vai trò và vị thế không ngừng gia tăng của Việt Nam. Việc trở thành đối tác chiến lược toàn diện với Hoa Kỳ cùng với đó là sự nâng cấp mối quan hệ ngoại giao với nhiều quốc gia lớn đã đưa vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế gia tăng và mở ra những vận hội mới cho đất nước.
(VNF) - Nhân dịp Xuân Ất Tỵ 2025, ông Norman Lim - Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Singapore tại Việt Nam (SingCham Việt Nam) đã chia sẻ với Tạp chí Đầu tư Tài chính - VietnamFinance về những triển vọng kinh tế Việt Nam trong năm mới với những yếu tố định hình tăng trưởng bền vững.
(VNF) - Trao đổi cùng Tạp chí Đầu tư Tài chính – VietnamFinance, TS Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu và Quản lý kinh tế trung ương, khẳng định chính hệ thống pháp luật hiện nay là
“thủ phạm” khiến chúng ta tự trói buộc chính mình, kìm hãm sự phát triển. Ông cho rằng nếu khơi thông điểm nghẽn này thì việc kinh tế Việt Nam tăng trưởng hai con số là điều hoàn toàn có thể đạt được.
(VNF) - Giám đốc Quốc gia, Viện Tony Blair tại Việt Nam cho rằng, nền tảng thiết yếu để một Trung tâm tài chính quốc tế thành công là ở thiết kế thể chế.
(VNF) - TS Phạm Hùng Tiến - Chuyên gia về đầu tư FDI chỉ ra rằng, các tỉnh Phía Bắc có giá trị xuất khẩu thuộc nhóm dẫn đầu cả nước nhưng lại nằm ngoài nhóm 10 thu ngân sách lớn. Điều này phần nào cho thấy, phần nhận được từ các "kỳ tích" xuất khẩu mà doanh nghiệp FDI mang lại là không tương xứng, thậm chí là rất ít.
(VNF) - Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đầy biến động, Việt Nam đang đặt ra mục tiêu đầy “tham vọng” là tăng trưởng GDP trên 8% trong năm 2025 và xa hơn là đạt mức tăng trưởng hai con số (10% trở lên) trong những năm tiếp theo. Để hiện thực hóa tham vọng này, theo các chuyên gia, cải cách mô hình quản lý kinh tế sẽ giúp bộ máy phát triển một cách trơn tru, có thể giúp cải thiện tăng trưởng GDP lên 1 - 2%, thêm cơ hội tăng trưởng 2 con số.
(VNF) - Dự án Khu đô thị xanh Dragon City-Park đã thực hiện nghĩa vụ tài chính theo hợp đồng chuyển nhượng nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khiến khách hàng của dự án nhiều năm qua gặp khó khăn.