(VNF) - Trong thời gian vừa qua có rất nhiều ý kiến cho rằng xả lũ của thủy điện là nguyên nhân gây lũ chồng lũ, làm gia tăng ngập lụt, kéo theo đó là những thiệt hại về người và của. Có đúng như vậy không?
Thủy điện có gây thêm lũ?
Lũ lụt miền Trung nước ta đang gây ra những thiệt hại rất lớn về người và của. Trong đó, đau thương nhất là các vụ sạt lở đất gần và ngay tại thủy điện Rào Trăng 3 làm 17 công nhân và 13 cán bộ, chiến sỹ thuộc đoàn cứu hộ bị vùi lấp và hy sinh; vụ sạt lở đất làm 22 cán bộ, chiến sỹ Đoàn kinh tế - quốc phòng 337 bị vùi lấp và hy sinh cùng rất nhiều thiệt hại về người và của khác. Cả nước đang đóng góp, chia sẻ, cùng đồng bào miền Trung vượt qua những thời điểm đau thương, khó khăn này.
Trong thời gian vừa qua có rất nhiều ý kiến cho rằng xả lũ của thủy điện là nguyên nhân gây lũ chồng lũ, làm gia tăng ngập lụt, kéo theo đó là những thiệt hại về người và của. Có đúng như vậy không?
Là một người từng có 6 năm dạy môn Kỹ thuật môi trường sông ở Đại học Saitama, Nhật Bản và nằm trong nhóm chuyên gia quản lý các hồ chứa khu vực Kanto của Nhật Bản, cũng như bản thân đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề này, tôi muốn đóng góp ý kiến để làm sang tỏ vấn đề “thủy điện có gây thêm lũ?”.
Năm 2010, Nhóm Công tác châu Âu về đập và lũ lụt đã xuất bản một báo cáo đánh giá khả năng giảm nhẹ lũ lụt của đập và trên cơ sở tính toán về mức độ giảm nhẹ lũ lụt của tất cả các nước châu Âu (https://cnpgb.apambiente.pt/IcoldClub/jan2012/EWG%20FLOODS%20FINAL%20REPORT.pdf) đã thấy đập (cả thủy điện, thủy lợi và cấp nước) đã giúp giảm nhẹ lũ lụt ở tất cả các nước châu Âu. Tuy nhiên, mức độ giảm nhẹ lũ tùy thuộc vào dung tích hồ và quá trình vận hành hồ. Các hồ lớn, dự báo tốt để có thể xả nước trước khi lũ lụt sẽ giúp giảm rất nhiều lũ lụt ở hạ du, trong khi các hồ nhỏ thì hầu như không có khả năng giảm lũ lụt.
Việt Nam ta đã xây dựng nhiều hồ thủy điện, đặc biệt là trong những năm gần đây. Cùng với việc xây dựng các hồ thủy điện là việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về tiêu chuẩn xây dựng cũng như vận hành các hồ chứa. Đặc biệt, Luật Thủy lợi và Nghị định số 114/2018/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý an toàn đập, hồ chứa nước đã quy định về lập, phê duyệt, công khai và thực hiện quy trình vận hành hồ chứa trong trường hợp có lũ, như là trường hợp khẩn cấp. Trong đó, Luật Thủy lợi quy định trong quá trình thi công, chủ đầu tư xây dựng đập, hồ chứa nước có trách nhiệm lập phương án ứng phó thiên tai cho công trình, vùng hạ du đập trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và tổ chức thực hiện. Chủ đầu tư xây dựng đập, hồ chứa nước cũng có trách nhiệm lập quy trình vận hành hồ chứa, phương án ứng phó với tình huống khẩn cấp trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt trước khi tích nước và bàn giao cho tổ chức, cá nhân khai thác, cơ quan quản lý nhà nước về thủy lợi, phòng, chống thiên tai.
Các hồ thủy điện ở Việt Nam được vận hành theo các quy trình được xây dựng theo chuẩn quốc tế. Nói chung, quy trình xả lũ của đập thủy điện do các chủ đầu tư xây dựng, trình phê duyệt có các thông số kỹ thuật khác nhau, nhưng có các điểm chính như sau.
Khi mưa về, hồ xả nước tới mức “đón lũ”. Gần đây, mức đón lũ được giảm xuống, tùy vào hồ có chức năng điều tiết lũ hay không.
Mưa vẫn lớn, lượng nước về hồ khá lớn; nước trong hồ dâng lên vượt một mức nào đó (ngưỡng thứ nhất, gọi là ngưỡng xả), hồ bắt đầu xả nước để giảm tốc độ nước dâng trong hồ. Lưu lượng xả nước tăng theo mực nước trong hồ.
Khi mực nước trong hồ đạt tới ngưỡng thứ 2, hồ xả nước với lưu lượng bằng lưu lượng nước về hồ. Lúc đó có thủy điện hay không có thủy điện lượng nước về hạ lưu vẫn thế, hay nói cách khác là khi đó, có hồ cũng như không. Thủy điện không xả quá lượng nước về vì nó vẫn cần tích nước phục vụ phát điện. Nước trong hồ là tài sản, là tiền nên các nhà quản lý thủy điện không xả bừa bãi để gây ngập lụt ở hạ du.
Các thủy điện nhỏ không có chức năng điều tiết lũ nên lượng nước xả nhiều nhất đúng bằng lượng nước vào hồ và do vậy, việc xả lũ không có tác dụng điều tiết lũ lụt. Điều này cũng đúng như viết trong báo cáo của châu Âu được dẫn ở trên.
Quy trình nêu trên khá rõ ràng, nhưng vẫn có những ý kiến rằng xả lũ đập thủy điện làm tăng lũ. Vậy hãy làm một thí nghiệm đơn giản để xem thủy điện có làm tăng lũ hay không?
Ta lấy 1 cái chậu đang có 1 ít nước, cho một vòi nước vào đó và cho nước chảy vào chậu. Ban đầu ít nước, nước giữ trong chậu. Sau đó mực nước trong chậu tăng lên, tới lúc tràn. Đây là xả lũ. Lúc này lượng nước từ vòi vào chậu bằng lượng nước xả ra và mực nước trong chậu không đổi. Thủy điện là cái chậu đó. Cái chậu đó tích được thêm 1 ít nước, nhưng không sinh thêm ra nước để đổ ra ngoài. Nếu phía cuối sân có chỗ trũng thì rõ ràng là nước chảy qua chậu sẽ gây ngập ít hơn ở chỗ này so với nước xả trực tiếp ra sân.
Trong thực tế, các nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam cho thấy thủy điện gây ra rất nhiều hệ lụy môi trường, sinh thái và làm gia tăng xói lở bờ biển do chặn dòng bùn cát chảy ra biển; thủy điện cũng có những nguy cơ gây lũ quét rất lớn nếu đập bị vỡ; nhưng không có cơ sở khoa học nào để nói thủy điện làm tăng lũ. Nếu không có đập thủy điện lũ vẫn thế, thậm chí cao hơn. Đối với nhiều trường hợp, không có hồ thủy điện lũ cao hơn rất nhiều.
Ngày trước có thời gian bản thân người viết bài này sống cùng gia đình họ hàng ở ngay bờ, sát với sông Hồng, chỗ bến Hàm Tử bây giờ. Nhà họ hàng tôi có sắm một cái thuyền tôn để hàng năm dùng vào mùa lụt. Những năm chưa có đập thủy điện Hòa Bình, năm nào nước cũng ngập tới lưng nhà, thậm chí ngập đầu người và gia đình đều phải sơ tán, chỉ để 1 người nằm thuyền trông nhà. Từ khi có đập thủy điên Hòa Bình thì không còn lũ. Chúng tôi đã chuyển khỏi bờ sông từ rất lâu rồi, nhưng một số họ hàng tôi vẫn sống ở ngoài đê. Từ khi có đập thủy điện, nhất là trong 15 năm gần đây nhà họ chưa bao giờ bị lụt.
Có người nói rằng xây đập thủy điện sẽ gây phá rừng. Nếu quản lý tốt thì phần diện tích rừng bị phá chỉ là lòng hồ và một phần rừng bị phá để làm đường sá và các công trình phục vụ thủy điện. Phần rừng thứ hai (trừ đường sá sẽ nói ở phần sau) nói chung rất nhỏ so với phần rừng ở lòng hồ. Ta hãy đánh giá xem tác hại của việc phá rừng lòng hồ tới lũ lụt như thế nào thông qua giải thích như dưới đây.
Thông thường, tùy vào điều kiện đất (trước đó có mưa hay không mà đất có bị ướt hay không), đất, hang hốc và lá, cành cây chỉ giữ được một lượng nước không lớn. Rất khó tính toán chính xác lượng nước này nhưng cứ tạm cho một giá trị cực kỳ lớn, khoảng chừng 20 cm hoặc 200 mm. Vậy nước còn lại sẽ chảy về xuôi gây lụt. Nếu lượng mưa là 700 mm thì lượng chảy về xuôi là 500 mm. Mặt khác, như đã nêu trên, mực nước đón lũ trong hồ thấp hơn mực nước xả lũ it nhất tới 4m. Vậy mặt hồ chứa ít nhất được 4m nước và mặt đất chứa được tối đa 0,2m nước. Nhiều hồ lớn, như thủy điện A Vương, chứa được 14 m nước. Như vậy phá rừng lòng hồ có làm gia tăng lũ lụt không? Tất nhiên là không!
Như vậy, các đập thủy điện đúng là tác động môi trường cực lớn, nhưng không làm tăng rủi ro lũ lụt.
Báo cáo của châu Âu mà tôi dẫn ở trên cũng cho thấy các hồ chứa chỉ có khả năng giảm lũ, lụt nhưng không có khả năng loại trừ hoàn toàn lũ, lụt. Nếu mưa lớn, hồ chứa không đủ sức điều tiết thì lũ lụt vẫn xảy ra. Hơn nữa, nếu hồ chứa không được xây dựng đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật, có khả năng đập bị vỡ gây ra thảm họa khôn lường.
Hiện nay, Việt Nam đã xây dựng một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật khá hoàn chỉnh để đảm bảo vận hành một cách an toàn và hiệu quả các hồ chứa. Tuy vậy, các cơ quan quản lý nhà nước ở các cấp trung ương và địa phương phải nỗ lực tổ chức thực hiện, đảm bảo các đập thủy điện được thiết kế và xây dựng phù hợp, an toàn; các đập và hồ được kiểm tra, bảo dưỡng thường xuyên và có quy trình vận hành được các cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định để đảm bảo an toàn và hiệu quả như các mục tiêu thiết kế đề ra để góp phần giảm thiểu lũ lụt và tác hại của lũ lụt, cũng như ngăn ngừa sự cố môi trường do vỡ đập.
Cần chú ý là việc xây dựng các hồ chứa luôn kèm theo việc xây dựng một hệ thống hạ tầng đính kèm, bao gồm nhà quản lý, biến áp, đường sá cũng như có thể yêu cầu bố trí quỹ đất để tái định cư. Việc này sẽ gây ra phá rừng và do vậy làm gia tăng lũ lụt. Ngoài ra, việc san đồi núi tạo các mặt bằng xây dựng có thể làm gia tăng mức độ bất ổn định của các khối đất đá, làm gia tăng khả năng trượt lở đất và gây những thiệt hại về người và của. Tuy vậy, cần nhấn mạnh rằng hiện nay phát triển hệ thống hạ tầng giao thông cần được thực hiện ở các vùng núi cao để phục vụ xóa đói giảm nghèo, cải thiện sinh kế, nâng cao mức sống người dân và phát triển kinh tế - xã hội; như vậy việc xây dựng đường của các thủy điện có thể coi một phần là đóng góp phát triển kinh tế - xã hội của các vùng cao, xa xôi, hẻo lánh.
Với những tác động xấu nêu trên của thủy điện, cần nghiên cứu đánh giá các tác động tích cực và tiêu cực của việc xây dựng thủy điện và hạ tầng thủy điện để có các biện pháp quản lý phù hợp.
Một thí dụ về một nước phát triển nhưng vẫn có nhiều người chết do vỡ đê, sạt lở đất, lũ quét là Nhật Bản. Nhật Bản là một nước đã xây dựng được những con đê, những sườn núi xây bê tông cực kỳ hiện đại để chặn lở đất cũng như một hệ thống hạ tầng cứu hộ mà ít quốc gia trên thế giới có được. Tuy vậy, hàng năm Nhật vẫn có khá nhiều người chết vì sạt lở núi, vỡ đê, lũ lụt và lũ quét, chứng tỏ sức tàn phá của lũ kinh khủng ra sao. Thí dụ, cơn bão Hagibis quét qua Nhật Bản vào tháng 10 năm 2019 làm chết 10 người do lũ lụt và sạt lở đất. Đặc biệt, trận mưa tháng 7 năm 2018 ở Nhật đã làm chết 225 người, mất tích 13 người (https://en.wikipedia.org/wiki/2018_Japan_floods).
Do những tác động môi trường của thủy điện, tôi không ủng hộ thủy điện và nếu được chọn thì tôi sẽ theo làm theo cách của Mỹ, phá thủy điện cũ đi, không xây thêm thủy điện mới mà chỉ phát triển nhiệt điện và các dạng năng lượng khác. Tuy nhiên, đặt điều đó ra với Việt Nam rất khó khăn. Phát triển kinh tế mà giảm tiêu thụ điện là một chuyện chỉ có trong tưởng tượng. Ở Việt Nam hiện nay, do biến đổi khí hậu, ngay cả các gia đinh có điều kiện ỏ nông thôn cũng dùng điều hòa nhiệt độ vào mùa hè. Hơn nữa, kinh tế càng phát triển thì càng cần nhiều điện hơn nên năng lượng càng ngày càng thiếu. Do vậy, dù thế nào ta vẫn phải tiếp tục phát triển năng lượng. Vấn đề chỉ là phát triển sao cho hiệu quả và gây ít tác động tới môi trường, kinh tế - xã hội nhất.
(*) Khoa Môi trường, Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội.
(VNF) - Tiêu dùng của người dân chiếm gần 64% GDP đang suy yếu, kéo theo niềm tin giảm mạnh. Trong bối cảnh xuất khẩu bấp bênh, đầu tư công chậm giải ngân, các chuyên gia cảnh báo: muốn đạt tăng trưởng 10%, Việt Nam phải khơi thông túi tiền và củng cố niềm tin tiêu dùng của dân.
(VNF) - Quá trình M&A trong lĩnh vực giáo dục không chỉ là vấn đề tài chính mà còn đòi hỏi sự nhạy bén trong quản trị văn hóa và vận hành. Đây là bài học mà ông Punendu Sharma, Giám đốc đầu tư (CIO) của EQuest Education Group, rút ra sau nhiều năm tham gia các thương vụ M&A tại Việt Nam.
(VNF) - Quỹ đất xanh tại các thành phố lớn đang dần thu hẹp, đặt ra thách thức với các cơ sở giáo dục trong việc xây dựng môi trường học tập lành mạnh. Tạp chí Đầu tư Tài chính - VietnamFinance đã có cuộc trò chuyện với bà Lê Nguyễn Trung Nguyên – Tổng giám đốc Hệ thống Giáo dục Victoria School về cách tiếp cận mô hình xanh, các cân nhắc về chi phí và vận hành, cũng như những khó khăn thực tế khi áp dụng tại môi trường đô thị Việt Nam.
(VNF) - Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIV đặt mục tiêu tăng trưởng GDP bình quân 10%/năm giai đoạn 2026–2030 – một tham vọng rất lớn trong bối cảnh mô hình tăng trưởng dựa vào lao động giá rẻ và FDI đã cạn dư địa. Các chuyên gia nhấn mạnh, muốn đạt được mục tiêu này, Việt Nam phải chuyển sang tăng trưởng dựa trên việc tăng năng suất và đổi mới sáng tạo.
(VNF) - TS Nguyễn Minh Cường cho rằng khi bàn về việc xây dựng trung tâm tài chính, cần đặt vấn đề trong bối cảnh: Liệu đây có phải là bước phát triển tiếp theo sau giai đoạn tự do hóa thương mại? Trung tâm tài chính có thể trở thành xuất phát điểm và động lực để thúc đẩy quá trình tự do hóa tài chính hay không?
(VNF) - Việt Nam đang hoàn thiện thể chế để thúc đẩy thương mại hóa tài sản trí tuệ, coi tri thức và công nghệ là động lực tăng trưởng mới và bền vững. Để làm điều đó, việc tạo hành lang pháp lý rõ ràng sẽ mở 'đường băng' đưa kết quả nghiên cứu và sáng tạo từ phòng thí nghiệm ra thị trường, thúc đẩy nền kinh tế tri thức.
(VNF) - Theo các chuyên gia, hiện tại là giai đoạn "vàng" để doanh nghiệp Việt tận dụng cơ hội từ Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA). Tuy nhiên, các quy định mới của EU về phát triển bền vững và bảo hộ thương mại đòi hỏi doanh nghiệp phải chủ động thích ứng, nếu không muốn bỏ lỡ lợi thế mà EVFTA mang lại.
(VNF) - Cơ chế Nhà nước đặt hàng doanh nghiệp tham gia vào các dự án lớn không chỉ mở ra cơ hội lớn cho Việt Nam trong việc xây dựng xây dựng đội ngũ doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh mà còn mở ra cơ hội để nâng cao năng lực nội sinh cho nền kinh tế.
(VNF) - Theo Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Mạnh Hùng, trí tuệ nhân tạo (AI) phải đi trong một “hành lang hẹp” giữa hỗn loạn và kiểm soát, giữa tự do và nỗi sợ hãi. Nhiệm vụ của chúng ta là định hướng bằng sự khôn ngoan và trách nhiệm. Một nhà nước mạnh phải bảo vệ những giá trị nhân văn, trong khi một xã hội cởi mở phải khuyến khích sáng tạo và đối thoại.
(VNF) - TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương
(CIEM) cho rằng, nếu không có đột phá mạnh mẽ về thể chế và nâng cao năng suất, chất lượng,
nền kinh tế Việt Nam sẽ khó thoát khỏi vòng luẩn quẩn tăng trưởng theo chiều rộng.
(VNF) - Bà Đào Thị Thu Thủy, Giám đốc chương trình MBA, Chánh văn phòng Tổ chức Khoa học và Chuyên gia Việt Nam toàn cầu (AVSE Global) khẳng định, khu vực kinh tế tư nhân đóng vai trò trung tâm trong hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng hai con số mà Việt Nam hướng tới trong những thập niên tới, nhờ vàosức mạnh của động lực nội sinh, tính linh hoạt cao, khả năng tạo việc làm lớn
và sức cạnh tranh ngày càng gia tăng.
(VNF) - TS. Nguyễn Bá Hùng, Chuyên gia kinh tế trưởng ADB tại Việt Nam, cho rằng Việt Nam cần thay đổi mô hình tăng trưởng, bởi mô hình dựa nhiều vào mở rộng nguồn lực đã bộc lộ hạn chế. Để duy trì tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, nền kinh tế cần chuyển dịch sang hướng chú trọng hiệu quả và đổi mới sáng tạo.
(VNF) - Trong bối cảnh pháp luật còn chồng chéo, việc phân định rủi ro kinh doanh
thông thường và hành vi vi phạm hình sự không hề dễ dàng. Điều này đặt ra yêu
cầu cấp thiết phải hoàn thiện thể chế để bảo vệ doanh nghiệp, doanh nhân, đồng
thời giữ nghiêm kỷ cương pháp luật. Tạp chí Đầu tư Tài chính đã có cuộc trao
đổi với luật sư Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch SB Law, về vấn đề này.
(VNF) - Theo nữ tỷ phú Nguyễn Thị Phương Thảo, chuyện "giải cứu" HoSE cho thấy khu vực tư nhân hoàn toàn có đủ năng lực thúc đẩy các lĩnh vực công nghệ then chốt.
(VNF) - Từ câu chuyện của VEAM, có thể thấy Nhà nước cần đứng ra tạo điều kiện hơn nữa cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển ngành ô tô - xe máy Việt Nam.
(VNF) - Theo ông Hồ Đức Thắng - Viện trưởng Viện Công nghệ số và Chuyển đổi số Quốc gia, việc đưa AI vào giảng dạy ngay từ bậc tiểu học là bước đi táo bạo, song để “đi nhanh mà chắc”, cần một lộ trình thận trọng, khả thi và đặt an toàn cũng như chất lượng giáo dục lên hàng đầu.
(VNF) - Bà Natalie Nguyễn – Chuyên gia hơn 20 năm kinh nghiệm trong ngành bán dẫn quốc tế cho rằng Việt Nam đang đứng trước một “cửa sổ cơ hội” hiếm hoi để chen chân vào bản đồ bán dẫn thế giới, nếu có chiến lược đúng và hành động kịp thời.
(VNF) - Ông Chu Thúc Đạt - Phó Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo nhận định: "Đổi mới sáng tạo không thể chỉ dừng lại ở nghiên cứu hàn lâm mà phải được thương mại hóa, tạo ra giá trị thực tiễn. Chuyển giao công nghệ trở thành chiếc cầu nối giúp đưa ý tưởng và kết quả nghiên cứu ra thị trường, giải quyết các bài toán của quốc gia, ngành và địa phương, đồng thời mở ra dòng chảy giá trị mới cho doanh nghiệp".
(VNF) - Theo TS. Lương Minh Huân - Viện trưởng Viện Phát triển doanh nghiệp VCCI, để xây dựng nền công nghiệp tự chủ và hùng cường, doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động nâng cao năng lực, đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, hiệp hội và các tổ chức hỗ trợ trong việc mở rộng khả năng tham gia vào chuỗi cung ứng nội địa và toàn cầu.
(VNF) - AI và công nghệ được xem là “ánh sáng” của thời đại mới, mở ra cơ hội giúp Việt Nam bứt phá. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, song hành với khát vọng đi nhanh, đất nước phải bảo đảm an sinh xã hội, đầu tư cho con người và thu hẹp khoảng cách công nghệ, nếu không sẽ tạo ra những bất bình đẳng mới.
(VNF) - Theo Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Nguyễn Mạnh Hùng, chiến lược phát triển AI của Việt Nam là “vừa nhanh, vừa an toàn, vừa nhân văn”. AI phải phục vụ con người, là trợ lý cho con người, không thay thế tư duy, giá trị và trách nhiệm của con người với tầm nhìn tầm nhìn AI sẽ trở thành “hạ tầng trí tuệ” của quốc gia.
(VNF) - Đại tướng Lương Tam Quang - Bộ trưởng Bộ Công an cảnh báo: Trí tuệ nhân tạo có thể bị lợi dụng vào các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, gây bất ổn xã hội, hoặc dẫn tới các dạng chiến tranh phi truyền thống trong không gian mạng, thông tin và dư luận
(VNF) - Theo ông Nguyễn Văn Hậu - CEO NetVietTV, Chủ tịch VSBC, AI đang bùng nổ toàn cầu, nhưng tại Việt Nam, tỷ lệ người dùng AI đúng cách chưa tới 5%. Nguyên nhân không nằm ở “prompt chưa hay” mà ở chỗ chưa có tư duy hệ thống, thiếu chiến lược dữ liệu và dễ sa vào trào lưu FOMO.
(VNF) - Các chaebol Hàn Quốc sử dụng đòn bẩy tài chính rất cao trong thời kỳ phát triển công nghiệp và cao hơn đáng kể Vingroup của Việt Nam hiện nay - vốn cũng đang dồn lực phát triển mảng công nghiệp.
(VNF) - Tiêu dùng của người dân chiếm gần 64% GDP đang suy yếu, kéo theo niềm tin giảm mạnh. Trong bối cảnh xuất khẩu bấp bênh, đầu tư công chậm giải ngân, các chuyên gia cảnh báo: muốn đạt tăng trưởng 10%, Việt Nam phải khơi thông túi tiền và củng cố niềm tin tiêu dùng của dân.
(VNF) - Tòa nhà chung cư FPT Plaza 4 – Khu đô thị Công nghệ FPT Đà Nẵng gần 1.400 căn hộ vừa được xác nhận đủ điều kiện mở bán, bổ sung nguồn cung nhà ở quy mô lớn cho khu vực này.