Thủy điện có gây thêm lũ?

PGS.TS Vũ Thanh Ca (*) - 21/10/2020 13:53 (GMT+7)

(VNF) - Trong thời gian vừa qua có rất nhiều ý kiến cho rằng xả lũ của thủy điện là nguyên nhân gây lũ chồng lũ, làm gia tăng ngập lụt, kéo theo đó là những thiệt hại về người và của. Có đúng như vậy không?

VNF
Thủy điện có gây thêm lũ?

Lũ lụt miền Trung nước ta đang gây ra những thiệt hại rất lớn về người và của. Trong đó, đau thương nhất là các vụ sạt lở đất gần và ngay tại thủy điện Rào Trăng 3 làm 17 công nhân và 13 cán bộ, chiến sỹ thuộc đoàn cứu hộ  bị vùi lấp và hy sinh; vụ sạt lở đất làm 22 cán bộ, chiến sỹ Đoàn kinh tế - quốc phòng 337 bị vùi lấp và hy sinh cùng rất nhiều thiệt hại về người và của khác. Cả nước đang đóng góp, chia sẻ, cùng đồng bào miền Trung vượt qua những thời điểm đau thương, khó khăn này.

Trong thời gian vừa qua có rất nhiều ý kiến cho rằng xả lũ của thủy điện là nguyên nhân gây lũ chồng lũ, làm gia tăng ngập lụt, kéo theo đó là những thiệt hại về người và của. Có đúng như vậy không?

Là một người từng có 6 năm dạy môn Kỹ thuật môi trường sông ở Đại học Saitama, Nhật Bản và nằm trong nhóm chuyên gia quản lý các hồ chứa khu vực Kanto của Nhật Bản, cũng như bản thân đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề này, tôi muốn đóng góp ý kiến để làm sang tỏ vấn đề “thủy điện có gây thêm lũ?”.

Năm 2010, Nhóm Công tác châu Âu về đập và lũ lụt đã xuất bản một báo cáo đánh giá khả năng giảm nhẹ lũ lụt của đập và trên cơ sở tính toán về mức độ giảm nhẹ lũ lụt của tất cả các nước châu Âu (https://cnpgb.apambiente.pt/IcoldClub/jan2012/EWG%20FLOODS%20FINAL%20REPORT.pdf) đã thấy đập (cả thủy điện, thủy lợi và cấp nước) đã giúp giảm nhẹ lũ lụt ở tất cả các nước châu Âu. Tuy nhiên, mức độ giảm nhẹ lũ tùy thuộc vào dung tích hồ và quá trình vận hành hồ. Các hồ lớn, dự báo tốt để có thể xả nước trước khi lũ lụt sẽ giúp giảm rất nhiều lũ lụt ở hạ du, trong khi các hồ nhỏ thì hầu như không có khả năng giảm lũ lụt.

Việt Nam ta đã xây dựng nhiều hồ thủy điện, đặc biệt là trong những năm gần đây. Cùng với việc xây dựng các hồ thủy điện là việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về tiêu chuẩn xây dựng cũng như vận hành các hồ chứa. Đặc biệt, Luật Thủy lợi và Nghị định số 114/2018/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý an toàn đập, hồ chứa nước đã quy định về lập, phê duyệt, công khai và thực hiện quy trình vận hành hồ chứa trong trường hợp có lũ, như là trường hợp khẩn cấp. Trong đó, Luật Thủy lợi quy định trong quá trình thi công, chủ đầu tư xây dựng đập, hồ chứa nước có trách nhiệm lập phương án ứng phó thiên tai cho công trình, vùng hạ du đập trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và tổ chức thực hiện. Chủ đầu tư xây dựng đập, hồ chứa nước cũng có trách nhiệm lập quy trình vận hành hồ chứa, phương án ứng phó với tình huống khẩn cấp trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt trước khi tích nước và bàn giao cho tổ chức, cá nhân khai thác, cơ quan quản lý nhà nước về thủy lợi, phòng, chống thiên tai.

Các hồ thủy điện ở Việt Nam được vận hành theo các quy trình được xây dựng theo chuẩn quốc tế. Nói chung, quy trình xả lũ của đập thủy điện do các chủ đầu tư xây dựng, trình phê duyệt có các thông số kỹ thuật khác nhau, nhưng có các điểm chính như sau.

Khi mưa về, hồ xả nước tới mức “đón lũ”. Gần đây, mức đón lũ được giảm xuống, tùy vào hồ có chức năng điều tiết lũ hay không.

Mưa vẫn lớn, lượng nước về hồ khá lớn; nước trong hồ dâng lên vượt một mức nào đó (ngưỡng thứ nhất, gọi là ngưỡng xả), hồ bắt đầu xả nước để giảm tốc độ nước dâng trong hồ. Lưu lượng xả nước tăng theo mực nước trong hồ.

Khi mực nước trong hồ đạt tới ngưỡng thứ 2, hồ xả nước với lưu lượng bằng lưu lượng nước về hồ. Lúc đó có thủy điện hay không có thủy điện lượng nước về hạ lưu vẫn thế, hay nói cách khác là khi đó, có hồ cũng như không. Thủy điện không xả quá lượng nước về vì nó vẫn cần tích nước phục vụ phát điện. Nước trong hồ là tài sản, là tiền nên các nhà quản lý thủy điện không xả bừa bãi để gây ngập lụt ở hạ du.

Các thủy điện nhỏ không có chức năng điều tiết lũ nên lượng nước xả nhiều nhất đúng bằng lượng nước vào hồ và do vậy, việc xả lũ không có tác dụng điều tiết lũ lụt. Điều này cũng đúng như viết trong báo cáo của châu Âu được dẫn ở trên.

Quy trình nêu trên khá rõ ràng, nhưng vẫn có những ý kiến rằng xả lũ đập thủy điện làm tăng lũ. Vậy hãy làm một thí nghiệm đơn giản để xem thủy điện có làm tăng lũ hay không?

Ta lấy 1 cái chậu đang có 1 ít nước, cho một vòi nước vào đó và cho nước chảy vào chậu. Ban đầu ít nước, nước giữ trong chậu. Sau đó mực nước trong chậu tăng lên, tới lúc tràn. Đây là xả lũ. Lúc này lượng nước từ vòi vào chậu bằng lượng nước xả ra và mực nước trong chậu không đổi. Thủy điện là cái chậu đó. Cái chậu đó tích được thêm 1 ít nước, nhưng không sinh thêm ra nước để đổ ra ngoài. Nếu phía cuối sân có chỗ trũng thì rõ ràng là nước chảy qua chậu sẽ gây ngập ít hơn ở chỗ này so với nước xả trực tiếp ra sân.

Trong thực tế, các nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam cho thấy thủy điện gây ra rất nhiều hệ lụy môi trường, sinh thái và làm gia tăng xói lở bờ biển do chặn dòng bùn cát chảy ra biển; thủy điện cũng có những nguy cơ gây lũ quét rất lớn nếu đập bị vỡ; nhưng không có cơ sở khoa học nào để nói thủy điện làm tăng lũ. Nếu không có đập thủy điện lũ vẫn thế, thậm chí cao hơn. Đối với nhiều trường hợp, không có hồ thủy điện lũ cao hơn rất nhiều.

Ngày trước có thời gian bản thân người viết bài này sống cùng gia đình họ hàng ở ngay bờ, sát với sông Hồng, chỗ bến Hàm Tử bây giờ. Nhà họ hàng tôi có sắm một cái thuyền tôn để hàng năm dùng vào mùa lụt. Những năm chưa có đập thủy điện Hòa Bình, năm nào nước cũng ngập tới lưng nhà, thậm chí ngập đầu người và gia đình đều phải sơ tán, chỉ để 1 người nằm thuyền trông nhà. Từ khi có đập thủy điên Hòa Bình thì không còn lũ. Chúng tôi đã chuyển khỏi bờ sông từ rất lâu rồi, nhưng một số họ hàng tôi vẫn sống ở ngoài đê. Từ khi có đập thủy điện, nhất là trong 15 năm gần đây nhà họ chưa bao giờ bị lụt.

Có người nói rằng xây đập thủy điện sẽ gây phá rừng. Nếu quản lý tốt thì phần diện tích rừng bị phá chỉ là lòng hồ và một phần rừng bị phá để làm đường sá và các công trình phục vụ thủy điện. Phần rừng thứ hai (trừ đường sá sẽ nói ở phần sau) nói chung rất nhỏ so với phần rừng ở lòng hồ. Ta hãy đánh giá xem tác hại của việc phá rừng lòng hồ tới lũ lụt như thế nào thông qua giải thích như dưới đây.

Thông thường, tùy vào điều kiện đất (trước đó có mưa hay không mà đất có bị ướt hay không), đất, hang hốc và lá, cành cây chỉ giữ được một lượng nước không lớn. Rất khó tính toán chính xác lượng nước này nhưng cứ tạm cho một giá trị cực kỳ lớn, khoảng chừng 20 cm hoặc 200 mm. Vậy nước còn lại sẽ chảy về xuôi gây lụt. Nếu lượng mưa là 700 mm thì lượng chảy về xuôi là 500 mm. Mặt khác, như đã nêu trên, mực nước đón lũ trong hồ thấp hơn mực nước xả lũ it nhất tới 4m. Vậy mặt hồ chứa ít nhất được 4m nước và mặt đất chứa được tối đa 0,2m nước. Nhiều hồ lớn, như thủy điện A Vương, chứa được 14 m nước. Như vậy phá rừng lòng hồ có làm gia tăng lũ lụt không? Tất nhiên là không!

Như vậy, các đập thủy điện đúng là tác động môi trường cực lớn, nhưng không làm tăng rủi ro lũ lụt.

Báo cáo của châu Âu mà tôi dẫn ở trên cũng cho thấy các hồ chứa chỉ có khả năng giảm lũ, lụt nhưng không có khả năng loại trừ hoàn toàn lũ, lụt. Nếu mưa lớn, hồ chứa không đủ sức điều tiết thì lũ lụt vẫn xảy ra. Hơn nữa, nếu hồ chứa không được xây dựng đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật, có khả năng đập bị vỡ gây ra thảm họa khôn lường.

Hiện nay, Việt Nam đã xây dựng một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật khá hoàn chỉnh để đảm bảo vận hành một cách an toàn và hiệu quả các hồ chứa. Tuy vậy, các cơ quan quản lý nhà nước ở các cấp trung ương và địa phương phải nỗ lực tổ chức thực hiện, đảm bảo các đập thủy điện được thiết kế và xây dựng phù hợp, an toàn; các đập và hồ được kiểm tra, bảo dưỡng thường xuyên và có quy trình vận hành được các cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định để đảm bảo an toàn và hiệu quả như các mục tiêu thiết kế đề ra để góp phần giảm thiểu lũ lụt và tác hại của lũ lụt, cũng như ngăn ngừa sự cố môi trường do vỡ đập.

Cần chú ý là việc xây dựng các hồ chứa luôn kèm theo việc xây dựng một hệ thống hạ tầng đính kèm, bao gồm nhà quản lý, biến áp, đường sá cũng như có thể yêu cầu bố trí quỹ đất để tái định cư. Việc này sẽ gây ra phá rừng và do vậy làm gia tăng lũ lụt. Ngoài ra, việc san đồi núi tạo các mặt bằng xây dựng có thể làm gia tăng mức độ bất ổn định của các khối đất đá, làm gia tăng khả năng trượt lở đất và gây những thiệt hại về người và của. Tuy vậy, cần nhấn mạnh rằng hiện nay phát triển hệ thống hạ tầng giao thông cần được thực hiện ở các vùng núi cao để phục vụ xóa đói giảm nghèo, cải thiện sinh kế, nâng cao mức sống người dân và phát triển kinh tế - xã hội; như vậy việc xây dựng đường của các thủy điện có thể coi một phần là đóng góp phát triển kinh tế - xã hội của các vùng cao, xa xôi, hẻo lánh.

Với những tác động xấu nêu trên của thủy điện, cần nghiên cứu đánh giá các tác động tích cực và tiêu cực của việc xây dựng thủy điện và hạ tầng thủy điện để có các biện pháp quản lý phù hợp.

Một thí dụ về một nước phát triển nhưng vẫn có nhiều người chết do vỡ đê, sạt lở đất, lũ quét là Nhật Bản. Nhật Bản là một nước đã xây dựng được những con đê, những sườn núi xây bê tông cực kỳ hiện đại để chặn lở đất cũng như một hệ thống hạ tầng cứu hộ mà ít quốc gia trên thế giới có được. Tuy vậy, hàng năm Nhật vẫn có khá nhiều người chết vì sạt lở núi, vỡ đê, lũ lụt và lũ quét, chứng tỏ sức tàn phá của lũ kinh khủng ra sao. Thí dụ, cơn bão Hagibis quét qua Nhật Bản vào tháng 10 năm 2019 làm chết 10 người do lũ lụt và sạt lở đất. Đặc biệt, trận mưa tháng 7 năm 2018 ở Nhật đã làm chết 225 người, mất tích 13 người (https://en.wikipedia.org/wiki/2018_Japan_floods).

Do những tác động môi trường của thủy điện, tôi không ủng hộ thủy điện và nếu được chọn thì tôi sẽ theo làm theo cách của Mỹ, phá thủy điện cũ đi, không xây thêm thủy điện mới mà chỉ phát triển nhiệt điện và các dạng năng lượng khác. Tuy nhiên, đặt điều đó ra với Việt Nam rất khó khăn. Phát triển kinh tế mà giảm tiêu thụ điện là một chuyện chỉ có trong tưởng tượng. Ở Việt Nam hiện nay, do biến đổi khí hậu, ngay cả các gia đinh có điều kiện ỏ nông thôn cũng dùng điều hòa nhiệt độ vào mùa hè. Hơn nữa, kinh tế càng phát triển thì càng cần nhiều điện hơn nên năng lượng càng ngày càng thiếu. Do vậy, dù thế nào ta vẫn phải tiếp tục phát triển năng lượng. Vấn đề chỉ là phát triển sao cho hiệu quả và gây ít tác động tới môi trường, kinh tế - xã hội nhất.

(*) Khoa Môi trường, Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội.

Cùng chuyên mục
Tin khác