Kinh tế Việt Nam trước kỷ nguyên vươn mình:

Phát triển kinh tế tư nhân: Vun bồi nội lực để vươn mình

TS Bùi Thanh Minh - 29/01/2025 16:00 (GMT+7)

(VNF) - Trong một thế giới VUCA (Biến động – Không chắc chắn – Phức tạp – Mơ hồ) thì có một điều ngày càng trở nên rõ ràng hơn là vai trò và vị thế không ngừng gia tăng của Việt Nam. Việc trở thành đối tác chiến lược toàn diện với Hoa Kỳ cùng với đó là sự nâng cấp mối quan hệ ngoại giao với nhiều quốc gia lớn đã đưa vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế gia tăng và mở ra những vận hội mới cho đất nước.

Tổng bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh đến “Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”. Mục tiêu quan trọng của kỷ nguyên mới là đưa Việt Nam vượt qua bẫy thu nhập trung bình, trở thành nước có thu nhập cao vào năm 2045.

Trong giai đoạn 1980-2022, theo số liệu của IMF có đến 56 quốc gia mắc kẹt trong bẫy thu nhập trung bình. Malaysia hay Thái Lan dù có vị thế tương đương so với Hàn Quốc hay Đài Loan (Trung Quốc) vào những năm 1950 nhưng đã chính thức mắc kẹt và chưa thể tìm lại quỹ đạo phát triển của mình.

Trong bối cảnh có nhiều thay đổi, sự vươn lên của Việt Nam cũng sẽ có những đặc thù nhưng mô hình Việt Nam hướng đến có thể học hỏi từ mô hình Đông Á với các tấm gương điển hình như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore hay Đài Loan (Trung Quốc). Điểm chung của các quốc gia này là sự năng động của khu vực tư nhân và sự có mặt của các doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh toàn cầu.

Kinh tế tư nhân đã phát triển nhưng còn nhiều hạn chế

Trải qua gần 40 năm Đổi mới, khu vực tư nhân đã không ngừng lớn mạnh, đóng góp vào các thành tựu chung của nền kinh tế.

Trong giai đoạn năm 2016 - 2021, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp bình quân khoảng gần 46% GDP, tạo ra khoảng 30% nguồn thu ngân sách nhà nước, thu hút khoảng 85% lực lượng lao động; tỷ lệ đóng góp thuế thu nhập doanh nghiệp chiếm khoảng 34,1%, cao hơn mức đóng góp 27,7% của các doanh nghiệp nhà nước.

Đáng chú ý, sự đóng góp của kinh tế tư nhân vào tổng thu ngân sách nhà nước đã tăng từ 13,88% năm 2016 lên 18,5% năm 2021 và chiếm khoảng 35% tổng kim ngạch nhập khẩu và 25% tổng kim ngạch xuất khẩu. Khu vực tư nhân là động lực chính tạo việc làm, giảm nghèo, cải thiện điều kiện sống, và thúc đẩy tăng trưởng toàn diện và bền vững tại Việt Nam.

Tuy nhiên, khu vực kinh tế tư nhân ngày càng bị lấn át bởi khu vực FDI. Điều này thể hiện qua nhiều khía cạnh khác nhau từ những con số đo lường được đến những khía cạnh định tính như cảm giác bị phân biệt đối xử của chủ doanh.

Khu vực tư nhân không hưởng được nhiều lợi ích từ các FTAs như FDI. Thành tựu lớn của kinh tế Việt Nam kể từ khi gia nhập WTO là sự gia tăng nhanh chóng của giá trị xuất khẩu, tuy nhiên giá trị xuất khẩu tăng nhanh qua các năm chủ yếu đến từ khu vực FDI. Khu vực nội địa chiếm tỷ trọng ít hơn và tăng chậm hơn. Giai đoạn 2010 - 2012, tỷ trọng hàng hóa xuất khẩu bởi doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước là ngang nhau.

Tuy nhiên, trong các năm kế tiếp giá trị hàng hóa xuất khẩu bởi doanh nghiệp FDI tăng ngày càng nhanh, và dần chiếm trên ⅔ tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Theo số liệu thống kê năm 2023, 72,52% kim ngạch hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam là đến từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Bên cạnh đó, trong khi FDI xuất khẩu các mặt hàng có hàm lượng kỹ thuật và giá trị gia tăng cao thì doanh nghiệp nội địa lại chủ yếu xuất các nguyên liệu, sản phẩm nông nghiệp và sản phẩm công nghiệp nhẹ, thâm dụng lao động.

Điện thoại, linh kiện, máy vi tính và các sản phẩm điện tử, dây điện, dây cáp điện và máy móc thiết bị phụ tùng khác là các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu bởi doanh nghiệp FDI. Việt Nam đã trở thành nhà cung cấp lớn nhất của Samsung trên thị trường thế giới với hơn 50% điện thoại của Samsung bán trên toàn thế giới là sản phẩm “Made in Vietnam”.

Nhưng số liệu cũng phản ánh thực tế rằng Việt Nam đang dần trở thành quốc gia “gia công giá rẻ” và không tận dụng được các lợi ích (đặc biệt là việc chuyển giao và phát triển công nghệ) mà FDI mang lại.

Các doanh nghiệp nội địa dường như bị các doanh nghiệp FDI đánh bại ở các lĩnh vực sản phẩm công nghệ cao, và cả lĩnh vực dệt may (một lĩnh vực trọng điểm trong hoạt động xuất khẩu ở Việt Nam). Chỉ ở trong các lĩnh vực xuất khẩu nông, thủy hải sản, thì các doanh nghiệp Việt Nam mới có lợi thế rõ rệt hơn các doanh nghiệp FDI.

Bên cạnh đó, cảm giác bị phân biệt đối xử cũng tồn tại, cản trở doanh nghiệp nội địa đầu tư, sản xuất kinh doanh. Các khảo sát của Ban nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân trong 2 năm qua luôn cho thấy niềm tin của chủ doanh ở khu vực kinh tế tư nhân luôn thấp và phục hồi chậm hơn khu vực doanh nghiệp nhà nước và FDI.

Bên cạnh khó khăn về đơn hàng do thị trường thì có thể nhìn thấy nhiều khó khăn liên quan đến thể chế, đòi hỏi sự cải cách mạnh mẽ để hỗ trợ doanh nghiệp và tạo động lực cho họ vươn lên. Nếu các khó khăn và rào cản kéo dài sẽ bào mòn nội lực khu vực tư nhân cũng như tổng thể nền kinh tế.

Trong năm 2023, đầu tư tư nhân chỉ tăng 2,7%, mức thấp chưa từng có trong 10 năm vừa qua và thấp hơn cả giai đoạn COVID-19 (3,1%) là một hồi chuông đáng báo động, đặc biệt là trong kỷ nguyên mới của dân tộc.

Làm thế nào để doanh nghiệp nội địa phát triển

Một quốc gia không thể vươn mình nếu không có khu vực doanh nghiệp trong nước lớn mạnh và nhiều khát vọng. Muốn như vậy, bên cạnh thu hút đầu tư nước ngoài, nhà nước cần củng cố niềm tin ở khối doanh nghiệp tư nhân, tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi, thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh.

Để làm được điều đó, cần những giải pháp căn cơ, cả ngắn hạn và dài hạn, cả trong tư duy và thực tiễn.

Để có khu vực doanh nghiệp trong nước lớn mạnh, nhà nước cần có hệ sinh thái chính sách bao gồm: Hỗ trợ khởi nghiệp và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME): Các quốc gia thu nhập trung bình và thấp thường không sẵn có các doanh nghiệp lớn, vì vậy xuất phát điểm vẫn là các chính sách hỗ trợ để thúc đẩy các doanh nghiệp SME phát triển. Mục tiêu chính là tạo ra môi trường thuận lợi để doanh nghiệp hoạt động và phát triển, tích lũy vốn, công nghệ, nguồn lực khác để có thể trở thành những doanh nghiệp lớn, dẫn dắt nền kinh tế. Các chính sách hỗ trợ khởi nghiệp và phát triển SME thường ở các dạng như vườn ươm (incubation), hỗ trợ tài chính, thuế...

Từ những doanh nghiệp này, chính sách sẽ tập trung vào nhóm doanh nghiệp có tiềm năng tốt phát huy tối đa năng lực của mình bằng việc áp dụng công nghệ hiện đại. Trung Quốc và Đài Loan là những ví dụ điển hình trong việc áp dụng mô hình “người đi sau” (second mover) khi các viện nghiên cứu tài trợ bởi vốn Nhà nước tìm kiếm các công nghệ hiện đại ở nước ngoài và áp dụng rộng rãi vào bối cảnh của quốc gia, nhờ đó doanh nghiệp đã nâng cấp được năng lực công nghệ và sáng tạo, đóng góp cao vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Bên cạnh đó là các chương trình hỗ trợ tập trung vào việc phát triển sản phẩm mới, nâng cao năng lực R&D và khuyến khích khởi nghiệp vào các lĩnh vực mới, điển hình như công nghệ sinh học.

Chính sách công nghiệp và huy động đầu tư nội địa: Một chính sách công nghiệp hiệu quả là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và phát triển của nhóm doanh nghiệp.

Có thể thấy, vẫn chưa có những chỉ tiêu chung để định nghĩa như thế nào là một chính sách công nghiệp có hiệu quả do quá trình phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khác nhau như cấu trúc thị trường, kinh tế chính trị hay vấn nạn tham nhũng. Vì vậy, nếu không cẩn thận trong khâu lựa chọn, chính sách công nghiệp có thể không những kém hiệu quả mà thậm chí còn tiêu tốn thêm nguồn lực xã hội để điều chỉnh.

Theo IMF (2019), các bài học để xây dựng một chính sách công nghiệp hiệu quả từ sự thành công của “Phép màu Châu Á” (Hồng Kông, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan) và một số quốc gia phát triển như Mỹ, Đức là Chính phủ can thiệp để sửa chữa các thất bại của thị trường trong việc phát triển những nhóm ngành phức tạp, công nghệ cao; theo đuổi cạnh tranh với trách nhiệm giải trình cao, không có chính sách nào được áp dụng vô điều kiện mà cần có các chỉ tiêu theo dõi rõ ràng, đề cao trách nhiệm giải trình.

Ngoài ra, ngoài các ngành nghề được hỗ trợ, vẫn phải khuyến khích cạnh tranh gay gắt, công bằng đối với doanh nghiệp nội địa. Với các chuyển động địa chính trị hiện tại, Việt Nam có cơ hội lớn gia nhập chuỗi giá trị bán dẫn, AI toàn cầu. Bên cạnh đó là các ngành công nghiệp mới gắn với quá trình chuyển đổi xanh của thế giới để đạt được mục tiêu Net-Zero vào năm 2050.

Thu hút đầu tư nước ngoài và yêu cầu chuyển giao công nghệ: Các doanh nghiệp đa quốc gia thường có lợi thế về năng suất, quy mô và khả năng tiếp cận thị trường, nhờ đó mang lại nhiều giá trị như cơ hội việc làm, thuế và năng suất quốc gia. Hiệu ứng lan tỏa của FDI cũng rất rõ rệt nhờ thu hút thêm đầu tư cả trong và ngoài nước trong quá trình hoàn thiện chuỗi cung ứng, hay thông qua chuyển giao các công nghệ, kỹ năng và quy trình quản lý.

Do đó, nhiều quốc gia thuộc nhóm thu nhập thấp và trung bình thường xuyên cạnh tranh nhau bằng nhiều chính sách, hình thức khác nhau để thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt là nhóm các Tập đoàn lớn. Trong bối cảnh còn nhiều hạn chế về cơ sở hạ tầng, trình độ lao động, quy định pháp lý... Việt Nam chủ yếu sử dụng là chính sách ưu đãi về thuế và đất đai.

Trong giai đoạn đầu, vai trò của FDI là vô cùng quan trọng. Nếu có chính sách thúc đẩy liên kết, chuyển giao công nghệ giữa doanh nghiệp FDI và nội địa thì hiệu quả và tác động của doanh nghiệp FDI đến nền kinh tế sẽ tốt hơn.

Nhìn vào kinh nghiệm thúc đẩy hợp tác doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nội địa, các chính sách được đưa ra dựa trên 4 kênh khuếch tán công nghệ bao gồm (1) hợp tác chiến lược (strategic partnership), (2) kết nối chuỗi giá trị (value chain linkage), (3) dịch chuyển lao động (labour mobility), (4) Cạnh tranh và trao đổi kiến thức (Competition & knowledge exchange) (OECD, 2024).

Khơi thông dòng chảy thể chế

Khơi thông dòng chảy thể chế

Diễn đàn
(VNF) - Trao đổi cùng Tạp chí Đầu tư Tài chính – VietnamFinance, TS Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu và Quản lý kinh tế trung ương, khẳng định chính hệ thống pháp luật hiện nay là “thủ phạm” khiến chúng ta tự trói buộc chính mình, kìm hãm sự phát triển. Ông cho rằng nếu khơi thông điểm nghẽn này thì việc kinh tế Việt Nam tăng trưởng hai con số là điều hoàn toàn có thể đạt được.
Cùng chuyên mục
Tin khác