Từ chaebol xứ Hàn nhìn về câu chuyện nợ của Vingroup
Thanh Long -
14/09/2025 10:00 (GMT+7)
(VNF) - Các chaebol Hàn Quốc sử dụng đòn bẩy tài chính rất cao trong thời kỳ phát triển công nghiệp và cao hơn đáng kể Vingroup của Việt Nam hiện nay - vốn cũng đang dồn lực phát triển mảng công nghiệp.
Tháng 8 vừa qua, VinFast đã công bố kế hoạch tách một số tài sản thuộc về các dự án nghiên cứu và phát triển (R&D) đã hoàn thành sang một công ty mới thành lập là Công ty Cổ phần Nghiên cứu và Phát triển Novatech. Điểm đặc biệt là vốn điều lệ của công ty này lên tới gần 106.000 tỷ đồng.
Theo báo cáo của Công ty Chứng khoán Vietcap, bằng cách chuyển nhượng toàn bộ cổ phần của mình tại Novatech cho cá nhân tỷ phú Phạm Nhật Vượng - Chủ tịch HĐQT Vingroup, VinFast sẽ nhận về 39.800 tỷ đồng. Trước đó, tỷ phú Phạm Nhật Vượng đã tài trợ cho VinFast tổng cộng 28.000 tỷ đồng tính đến cuối quý II/2025.
Đây là cách thức huy động vốn hết sức đặc biệt của VinFast trong bối cảnh Vingroup đang dồn lực phát triển mảng công nghiệp. Theo ước tính của Forbes, tổng tài sản của tỷ phú Phạm Nhật Vượng ở mức khoảng 13,8 tỷ USD (tương đương trên 350.000 tỷ đồng). Việc Chủ tịch Vingroup dùng tài sản cá nhân để hỗ trợ VinFast là tín hiệu mạnh mẽ về cam kết với mảng công nghiệp ô tô.
Theo ước tính của Forbes, tổng tài sản của tỷ phú Phạm Nhật Vượng ở mức khoảng 13,8 tỷ USD (tương đương trên 350.000 tỷ đồng).
Việc phát triển mảng công nghiệp ô tô đương nhiên sẽ khiến quy mô nợ của Vingroup tăng lên so với trước đây. Vấn đề là, quy mô nợ của Vingroup hiện có ở mức hợp lý hay không?
Số liệu từ báo cáo tài chính hợp nhất của Vingroup cho thấy, tính đến hết quý II/2025, tổng nợ phải trả của tập đoàn này ở mức gần 800.000 tỷ đồng, trong đó tổng nợ tính lãi ở mức gần 283.000 tỷ đồng (bao gồm vay và nợ thuê tài chính và trái phiếu chuyển đổi). So với vốn chủ sở hữu, tổng nợ tính lãi của Vingroup bằng 1,78 lần.
Nhìn sang xứ Hàn
Từ khi Vingroup thông báo bước vào lĩnh vực sản xuất ô tô, giới đầu tư đã liên tưởng ngay đến mô hình phát triển của các chaebol Hàn Quốc: dồn nguồn lực phát triển mảng công nghiệp với sự hỗ trợ từ Chính phủ.
Sự trỗi dậy của các chaebol Hàn Quốc là một quá trình dài hơi. Sau chiến tranh Triều Tiên, phần lớn các tập đoàn lớn hiện nay như Samsung, Hyundai, LG hay Daewoo đều khởi đầu từ những lĩnh vực thương mại, xây dựng hoặc hàng tiêu dùng giản đơn. Khi chính phủ Hàn Quốc quyết định lấy công nghiệp và xuất khẩu làm động lực tăng trưởng, các tập đoàn này được lựa chọn như “cánh tay nối dài” của chiến lược quốc gia: họ nhận ưu đãi tín dụng, đất đai, bảo hộ thị trường và từ đó mở rộng mạnh mẽ vào những ngành mới mẻ và ngốn vốn khổng lồ như thép, đóng tàu, điện tử và ô tô.
Điều khó tránh khỏi là các tập đoàn phải “gánh lỗ” triền miên ở các ngành mới. Hyundai bắt đầu sản xuất ô tô từ giữa thập niên 1970 với mẫu Pony nhưng phải đến tận những năm 1990 mới gây dựng được chỗ đứng quốc tế, sau khi đã tiêu tốn nguồn vốn khổng lồ cho nhà máy, công nghệ và thị trường xuất khẩu. Samsung Electronics cũng có quãng thời gian dài đổ hàng tỷ USD vào bán dẫn trong khi chưa có lợi nhuận. Nhưng chính sự kiên định theo đuổi công nghiệp hoá, chấp nhận hy sinh lợi nhuận trong ngắn hạn, cùng với sự hỗ trợ chính sách quyết liệt từ nhà nước, đã giúp một số chaebol không chỉ vượt qua mà còn vươn lên trở thành tập đoàn toàn cầu. Đó là con đường không ít rủi ro, nhưng cũng là một trong những kinh nghiệm điển hình về cách một nền kinh tế nhỏ bé có thể bứt phá để trở thành cường quốc công nghiệp.
Sự kiên định theo đuổi công nghiệp hoá, chấp nhận hy sinh lợi nhuận trong ngắn hạn, cùng với sự hỗ trợ chính sách quyết liệt từ nhà nước, đã giúp một số chaebol không chỉ vượt qua mà còn vươn lên trở thành tập đoàn toàn cầu
Nghiên cứu “Korean Crisis and Recovery” của David T. Coe và Se-Jik Kim đã tiết lộ nhiều điều về tình hình tài chính của các doanh nghiệp Hàn Quốc nói chung và các chaebol nói riêng trong thời kỳ Hàn Quốc tiến hành “đại công nghiệp”.
Theo đó, tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu trung bình của tất cả các công ty sản xuất Hàn Quốc tăng mạnh từ 1 lần vào đầu những năm 1960 lên 3 lần vào đầu những năm 1970. Kể từ đó đến năm 1998, tỷ lệ này thường duy trì trong khoảng 3-4 lần, có khi lên tới 5 lần.
Chi tiết hơn, nhóm tác giả này phân tách các công ty Hàn Quốc ra làm 3 nhóm bao gồm: Big5 (nhóm 5 chaebol lớn nhất), Big 30 (nhóm 30 chaebol lớn nhất) và Non-chaebol (các công ty không nằm trong nhóm 30 chaebol lớn nhất).
Nếu tính ở tất cả các ngành, tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu của nhóm Big5 và Big30 giai đoạn 1985 - 1998 dao động ở mức 3-5 lần, cá biệt năm 1997 trên 5 lần đối với nhóm Big30, trong khi nhóm Non-chaebol ở mức 2-4 lần.
Nếu chỉ tính riêng ngành sản xuất, nhóm Big30 là cao nhất khi tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu ở mức 3-5 lần trong giai đoạn 1985 - 1998; trong khi Big5 thấp hơn với mức 2-4 lần, cá biệt có năm 1997 trên 4 lần; còn nhóm Non-chaebol thường dao động quanh mức 2-3 lần.
Các số liệu này được nhóm tác giả tính toán từ dữ liệu lấy từ Ngân hàng Hàn Quốc, phân tích báo cáo tài chính và nhiều ấn phẩm khác; ngoài ra, một số dữ liệu là ước tính do National Information and Credit Evaluation cung cấp. Cần lưu ý thêm rằng, khác với ngày nay, các báo cáo tài chính ở giai đoạn đó hiếm khi được công bố công khai.
Tuy nhiên, có một điểm chưa rõ ở đây là tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu tính theo nợ phải trả hay nợ tính lãi? Nếu tính theo nợ tính lãi thì rõ ràng, các tỷ lệ trên của các chaebol Hàn Quốc trong thời kỳ phát triển công nghiệp cao hơn đáng kể so với mức 1,78 lần của Vingroup - một doanh nghiệp được xem như “chaebol của Việt Nam”.
Dẫu vậy, kể cả khi nợ của các chaebol Hàn Quốc không phải là nợ tính lãi mà bao gồm cả các khoản phải trả khác thì nhiều khả năng, tỷ lệ nợ tính lãi trên vốn chủ sở hữu của các chaebol Hàn Quốc thời kỳ đó vẫn ở mức cao.
Cụ thể, nghiên cứu “Causes of the Korean Financial Crisis: Lessons for Policy” của Joon-Ho Hahm và Frederic S. Mishkin có cung cấp cơ cấu nợ của các doanh nghiệp Hàn Quốc trong giai đoạn 1990 - 1998, bao gồm: nợ vay ngân hàng, nợ vay từ các tổ chức phi ngân hàng, trái phiếu doanh nghiệp, nợ thông qua giấy tờ có giá ngắn hạn, nợ vay từ nước ngoài, các khoản phải trả và các loại nợ khác. Trong đó, có thể hiểu rằng nợ tính lãi bao gồm: nợ vay ngân hàng, nợ vay từ các tổ chức phi ngân hàng, trái phiếu doanh nghiệp, nợ thông qua giấy tờ có giá ngắn hạn, nợ vay từ nước ngoài.
Tính toán cho thấy, khoảng 70–75% tổng nợ là nợ tính lãi. Mặc dù đây là số liệu giai đoạn 1990 - 1998 nhưng cũng có tính chất tham khảo cho giai đoạn trước đó. Nếu lấy mức này làm tham chiếu, tỷ lệ nợ tính lãi trên vốn chủ sở hữu của các chaebol Hàn Quốc trong thời kỳ phát triển công nghiệp ở mức khoảng 2-4 lần.
Mặc dù mọi so sánh đều là khập khiễng như rõ ràng, để phát triển công nghiệp, doanh nghiệp sẽ cần nguồn lực rất lớn, trong đó, nguồn lực từ đi vay đóng vai trò rất quan trọng. Thành công hay không là câu chuyện ở tương lai nhưng nếu không làm thì chắc chắn không bao giờ thành công.
Đối với Vingroup, ngoại trừ VinFast, các công ty con của tập đoàn này được đánh giá là đều có khả năng tự duy trì để thực hiện các nghĩa vụ nợ và hoạt động kinh doanh, theo nhận định của Vietcap. Trong khi đó, Vietcap dự báo lợi nhuận trước thuế, khấu hao và lãi vay (EBITDA) của mảng công nghiệp (chủ yếu là VinFast) sẽ duy trì âm trong trung hạn và dòng tiền được hỗ trợ bởi các nguồn tài trợ từ Vingroup và cá nhân tỷ phú Phạm Nhật Vượng. Vietcap cũng nhấn mạnh Vingroup hiện nay vẫn còn nhiều dư địa huy động vốn, bao gồm: Vay ngân hàng trong nước, phát hành trái phiếu trong nước, vay hợp vốn và phát hành trái phiếu quốc tế, cơ cấu lại tài sản; ngoài ra, việc niêm yết Vinpearl cũng mở ra nhiều cơ hội huy động vốn mới.
(VNF) - Theo TS Lê Xuân Nghĩa, nói người dân tích trữ vàng gây hại cho nền kinh tế là thiếu cơ sở. Đồng thời, không thể yêu cầu người dân “đừng mua vàng” bằng những khẩu hiệu suông.
(VNF) - TS Nguyễn Minh Cường cho rằng khi bàn về việc xây dựng trung tâm tài chính, cần đặt vấn đề trong bối cảnh: Liệu đây có phải là bước phát triển tiếp theo sau giai đoạn tự do hóa thương mại? Trung tâm tài chính có thể trở thành xuất phát điểm và động lực để thúc đẩy quá trình tự do hóa tài chính hay không?
(VNF) - Việt Nam đang hoàn thiện thể chế để thúc đẩy thương mại hóa tài sản trí tuệ, coi tri thức và công nghệ là động lực tăng trưởng mới và bền vững. Để làm điều đó, việc tạo hành lang pháp lý rõ ràng sẽ mở 'đường băng' đưa kết quả nghiên cứu và sáng tạo từ phòng thí nghiệm ra thị trường, thúc đẩy nền kinh tế tri thức.
(VNF) - Theo các chuyên gia, hiện tại là giai đoạn "vàng" để doanh nghiệp Việt tận dụng cơ hội từ Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA). Tuy nhiên, các quy định mới của EU về phát triển bền vững và bảo hộ thương mại đòi hỏi doanh nghiệp phải chủ động thích ứng, nếu không muốn bỏ lỡ lợi thế mà EVFTA mang lại.
(VNF) - Cơ chế Nhà nước đặt hàng doanh nghiệp tham gia vào các dự án lớn không chỉ mở ra cơ hội lớn cho Việt Nam trong việc xây dựng xây dựng đội ngũ doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh mà còn mở ra cơ hội để nâng cao năng lực nội sinh cho nền kinh tế.
(VNF) - Theo Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Mạnh Hùng, trí tuệ nhân tạo (AI) phải đi trong một “hành lang hẹp” giữa hỗn loạn và kiểm soát, giữa tự do và nỗi sợ hãi. Nhiệm vụ của chúng ta là định hướng bằng sự khôn ngoan và trách nhiệm. Một nhà nước mạnh phải bảo vệ những giá trị nhân văn, trong khi một xã hội cởi mở phải khuyến khích sáng tạo và đối thoại.
(VNF) - TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương
(CIEM) cho rằng, nếu không có đột phá mạnh mẽ về thể chế và nâng cao năng suất, chất lượng,
nền kinh tế Việt Nam sẽ khó thoát khỏi vòng luẩn quẩn tăng trưởng theo chiều rộng.
(VNF) - Bà Đào Thị Thu Thủy, Giám đốc chương trình MBA, Chánh văn phòng Tổ chức Khoa học và Chuyên gia Việt Nam toàn cầu (AVSE Global) khẳng định, khu vực kinh tế tư nhân đóng vai trò trung tâm trong hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng hai con số mà Việt Nam hướng tới trong những thập niên tới, nhờ vàosức mạnh của động lực nội sinh, tính linh hoạt cao, khả năng tạo việc làm lớn
và sức cạnh tranh ngày càng gia tăng.
(VNF) - TS. Nguyễn Bá Hùng, Chuyên gia kinh tế trưởng ADB tại Việt Nam, cho rằng Việt Nam cần thay đổi mô hình tăng trưởng, bởi mô hình dựa nhiều vào mở rộng nguồn lực đã bộc lộ hạn chế. Để duy trì tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, nền kinh tế cần chuyển dịch sang hướng chú trọng hiệu quả và đổi mới sáng tạo.
(VNF) - Trong bối cảnh pháp luật còn chồng chéo, việc phân định rủi ro kinh doanh
thông thường và hành vi vi phạm hình sự không hề dễ dàng. Điều này đặt ra yêu
cầu cấp thiết phải hoàn thiện thể chế để bảo vệ doanh nghiệp, doanh nhân, đồng
thời giữ nghiêm kỷ cương pháp luật. Tạp chí Đầu tư Tài chính đã có cuộc trao
đổi với luật sư Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch SB Law, về vấn đề này.
(VNF) - Theo nữ tỷ phú Nguyễn Thị Phương Thảo, chuyện "giải cứu" HoSE cho thấy khu vực tư nhân hoàn toàn có đủ năng lực thúc đẩy các lĩnh vực công nghệ then chốt.
(VNF) - Từ câu chuyện của VEAM, có thể thấy Nhà nước cần đứng ra tạo điều kiện hơn nữa cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển ngành ô tô - xe máy Việt Nam.
(VNF) - Theo ông Hồ Đức Thắng - Viện trưởng Viện Công nghệ số và Chuyển đổi số Quốc gia, việc đưa AI vào giảng dạy ngay từ bậc tiểu học là bước đi táo bạo, song để “đi nhanh mà chắc”, cần một lộ trình thận trọng, khả thi và đặt an toàn cũng như chất lượng giáo dục lên hàng đầu.
(VNF) - Bà Natalie Nguyễn – Chuyên gia hơn 20 năm kinh nghiệm trong ngành bán dẫn quốc tế cho rằng Việt Nam đang đứng trước một “cửa sổ cơ hội” hiếm hoi để chen chân vào bản đồ bán dẫn thế giới, nếu có chiến lược đúng và hành động kịp thời.
(VNF) - Ông Chu Thúc Đạt - Phó Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo nhận định: "Đổi mới sáng tạo không thể chỉ dừng lại ở nghiên cứu hàn lâm mà phải được thương mại hóa, tạo ra giá trị thực tiễn. Chuyển giao công nghệ trở thành chiếc cầu nối giúp đưa ý tưởng và kết quả nghiên cứu ra thị trường, giải quyết các bài toán của quốc gia, ngành và địa phương, đồng thời mở ra dòng chảy giá trị mới cho doanh nghiệp".
(VNF) - Theo TS. Lương Minh Huân - Viện trưởng Viện Phát triển doanh nghiệp VCCI, để xây dựng nền công nghiệp tự chủ và hùng cường, doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động nâng cao năng lực, đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, hiệp hội và các tổ chức hỗ trợ trong việc mở rộng khả năng tham gia vào chuỗi cung ứng nội địa và toàn cầu.
(VNF) - AI và công nghệ được xem là “ánh sáng” của thời đại mới, mở ra cơ hội giúp Việt Nam bứt phá. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, song hành với khát vọng đi nhanh, đất nước phải bảo đảm an sinh xã hội, đầu tư cho con người và thu hẹp khoảng cách công nghệ, nếu không sẽ tạo ra những bất bình đẳng mới.
(VNF) - Theo Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Nguyễn Mạnh Hùng, chiến lược phát triển AI của Việt Nam là “vừa nhanh, vừa an toàn, vừa nhân văn”. AI phải phục vụ con người, là trợ lý cho con người, không thay thế tư duy, giá trị và trách nhiệm của con người với tầm nhìn tầm nhìn AI sẽ trở thành “hạ tầng trí tuệ” của quốc gia.
(VNF) - Đại tướng Lương Tam Quang - Bộ trưởng Bộ Công an cảnh báo: Trí tuệ nhân tạo có thể bị lợi dụng vào các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, gây bất ổn xã hội, hoặc dẫn tới các dạng chiến tranh phi truyền thống trong không gian mạng, thông tin và dư luận
(VNF) - Theo ông Nguyễn Văn Hậu - CEO NetVietTV, Chủ tịch VSBC, AI đang bùng nổ toàn cầu, nhưng tại Việt Nam, tỷ lệ người dùng AI đúng cách chưa tới 5%. Nguyên nhân không nằm ở “prompt chưa hay” mà ở chỗ chưa có tư duy hệ thống, thiếu chiến lược dữ liệu và dễ sa vào trào lưu FOMO.
(VNF) - Theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, việc đánh giá khu vực kinh tế tư nhân hiện nay còn nhiều bất cập khi “gộp chung” doanh nghiệp lớn, nhỏ và hộ kinh doanh để tính toán, từ đó đưa ra kết luận năng suất và hiệu quả thấp.
(VNF) - GS.TS Lê Anh Tuấn – Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội nhấn mạnh, để phát triển công nghệ chiến lược và thương mại hóa kết quả nghiên cứu, Việt Nam cần một mô hình hợp tác chặt chẽ giữa nhà nước, viện – trường và doanh nghiệp, trong đó đào tạo nhân lực chất lượng cao là nền tảng then chốt, tạo ra đội ngũ đủ năng lực triển khai chính sách, vận hành công nghệ, và đưa sản phẩm nghiên cứu ra thị trường.
(VNF) - Theo các chuyên gia, Việt Nam cần xây dựng một “sandbox” đủ lớn và thể chế tài chính chuẩn quốc tế để thu hút nhà đầu tư chiến lược, củng cố năng lực pháp lý và thúc đẩy hội nhập tài chính toàn cầu.
(VNF) - Theo TS Lê Xuân Nghĩa, nói người dân tích trữ vàng gây hại cho nền kinh tế là thiếu cơ sở. Đồng thời, không thể yêu cầu người dân “đừng mua vàng” bằng những khẩu hiệu suông.
(VNF) - Dự án Khu phức hợp công nghiệp – đô thị – dịch vụ Tiên Tiến (Mường Central) do Công ty cổ phần Thương mại Dạ Hợp thực hiện, với quy mô diện tích lên tới 82ha.